Đề 1.
Xác hàng thịt: (bắt đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia
ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác…
Hồn Trương Ba: A, mày biết nói kia à? Vô lí, mày không
thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…
Xác hàng thịt: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông
đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì
âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của
ông đấy!
Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài,
không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!
Xác hàng thịt: Có thật thế không?
Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp
kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, …
Xác hàng
thịt: Tất
nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông đứng ở bên nhà tôi … Khi ông
đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại … Đêm
hôm đó, suýt nữa thì …
Hồn Trương Ba: Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi
thở của mày …
Xác hàng
thịt: […] Chẳng
lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và
đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao? Để thỏa mãn
thôi, chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì? Nào hãy thành thật trả lời!
Hồn Trương Ba: Ta … ta … đã bảo mày im đi!
Xác hàng thịt: Rõ ràng là ông không dám trả lời. Giấu
ai chứ không thể giấu tôi được! Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi!
Hồn Trương Ba: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng:
nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn
Xác hàng thịt: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ
tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch,
thẳng thắn!
(Trích Hồn
Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,
Ngữ
văn 12, Tập hai, NXB Giáo
dục Việt Nam, tr.144 – 145)
Cảm nhận màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong đoạn trích trên. Từ đó rút ra ý nghĩa tư tưởng, triết
lí và nhân sinh sâu sắc trong đoạn trích.
ĐÁP ÁN
1. Giới thiệu được tác giả,
tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận |
– Lưu Quang Vũ
là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, sáng tác kịch. Ông không
chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của
thế kỉ XX mà còn được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ
thuật Việt Nam hiện đại. – Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết
năm 1981, được công diễn năm 1984. Dựa trên cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ
đã xây dựng thành công một vở kịch hiện đại và đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có
ý nghĩa nhân văn, thể hiện tư tưởng, triết lí sâu sắc. – Trong đó,
màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt đã thể hiện rõ thông điệp về
khát vọng được sống là chính mình và sự đấu tranh chống lại cái dung tục để
hoàn thiện nhân cách. |
2. Cảm nhận màn đối thoại giữa hồn
Trương Ba và xác hàng thịt |
2.1. Khái quát chung - Trương Ba là một ông lão làm vườn gần 60 tuổi, hiền lành, nhân hậu và
chơi cờ giỏi . Do sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu, Trương Ba bị bắt chết nhầm.
Để sửa sai, Đế Thích đã cho Trương Ba được sống lại trong xác của anh hàng thịt.
- Trú ngụ trong thân xác thô phàm, dung tục của người hàng thịt, Trương
Ba dần thay đổi, trở nên tầm thường, thô lỗ. Nhận thấy sự thay đổi đó, ông
đau khổ, tuyệt vọng và vô cùng chán nản, muốn thoát khỏi tình cảnh sống nhờ,
sống gửi để được sống là chính mình. Từ mong muốn đó, hồn Trương Ba đã tách
ra khỏi xác hàng thịt và cả hai có một cuộc tranh luận vô cùng căng thẳng. |
2.2. Nội dung: a. Hồn Trương Ba - Mở đầu màn đối
thoại, hồn Trương Ba đã lớn tiếng mắng mỏ xác hàng thịt với thái độ đầy tức
giận và khinh thường, nhằm phủ định hoàn toàn sự tồn tại của thể xác: “Vô lí! Mày không thể biết nói…không có tiếng
nói, mà chỉ là xác thịt âm u đui mù, chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý
nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!”. - Từ chỗ kiên
quyết không công nhận sự tồn tại của thân xác, coi khinh xác chỉ thứ vô
nghĩa, hồn Trương Ba buộc phải thừa nhận sự tồn tại của xác nhưng gắn với những
thứ tầm thường, thấp kém: “Nếu có thì
chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon,
thèm rượu thịt, …”. - Lời thoại
dài, giọng điệu mạnh mẽ, cách xưng hô “Ta
– mày” càng khẳng định thái độ coi thường, khinh bỉ, căm ghét của Hồn đối
với xác – loại thấp kém so với sự cao quý của tâm hồn. Cho nên, tất cả những
hành động tầm thường như sự rung động trước cô vợ người hàng thịt, sự xao xuyến
trước các món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, … đều là sự thỏa mãn thèm khát của
xác: “Đó là mày chứ, chân tay mày, hơi
thở mày, …”. - Không chỉ khẳng định sự cao quý của minhSSS, hồn còn cho xác thấy sự tồn
tại độc lập, nguyên vẹn, thẳng thắn của mình. Hồn không hề bị thể xác vấy bẩn,
tha hóa: “Không! Ta vẫn có một đời sống
riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. - Hồn vẫn ngụy
biện: ở trong thân xác của hàng thịt dung tục nhưng hồn vẫn giữ được sự trong
sạch của mình, không vì hoàn cảnh tầm thường mà trở thành thô thiển, phàm tục.
Tuy nhiên, trước những lí lẽ và dẫn chứng của xác, hồn cũng đã vô cùng đau khổ.
Hồn không thể che giấu được sự xấu hổ và tìm cách chạy trốn: “Im đi! …. Ta đã bảo mày im đi!”. b.
Xác hàng thịt - Ban đầu, xác
nhạo báng gọi hồn là “cái linh hồn mờ
nhạt” và khẳng định sự tồn tại của mình: “Xác thịt có tiếng nói đấy! …có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết” của hồn. - Xác đưa ra
những bằng chứng về sức mạnh sai khiến ghê gớm, lấn át cả linh hồn cao khiết
bằng thái độ ngạo nghễ, thách thức, giễu cợt và cách xưng hô ngang hàng “tôi
– ông”. + Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh
hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi
thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại”, đêm hôm đó suýt nữa thì…; + Đó là cảm
giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là “phàm”: tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi. + Đó còn là cái lần ông tát thằng con “toé máu mồm máu mũi”,…, cơn giận có
thêm sức mạnh đôi tay. - Xác cũng cười nhạo cái lí lẽ mà hồn đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn. Xác chỉ rõ sự
tha hóa của hồn khi ở trong xác. Hồn Trương Ba đã bị xác sai khiến, lấn át và
thậm chí, đã thay đổi hoàn toàn và trở thành con người khác, không còn đời sống
riêng, trong sạch như hồn đã khẳng định. => Trong màn đối thoại với xác hàng thịt, hồn Trương Ba từ thế chủ động
ban đầu đã dần trở nên yếu thế, đuối lí . Hồn bị dồn vào thế bị động. Lời thoại ngắn dần, chỉ còn là những lời
kêu, tiếng than nhát gừng, đầy đau khổ: “Nhưng
…nhưng…”. Cuối cùng, hồn đành bần thần nhập lại vào xác trong sự ngậm
ngùi, tuyệt vọng. Còn xác hàng thịt, luôn ở thế chủ động, lấn lướt hồn, xảo
quyệt an ủi, dụ dỗ hồn thỏa hiệp, chiều theo những đòi hỏi của mình. 2.3. Nghệ thuật - Sự kết hợp giữa nội dung hiện
thực với yếu tố kì ảo - Nghệ thuật tạo tình huống và dẫn dắt xung đột kịch, sắc thái đa dạng
của lời thoại khiến cho tâm lí nhân vật được phơi trải, sát với đặc trưng thể
loại - Ngôn ngữ kịch giàu chất triết lí, giọng điệu tranh biện độc đáo. |
3. Nhận
xét về ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân sinh sâu sắc |
- Hai hình tượng hồn và xác mang ý nghĩa ẩn dụ. Hồn biểu tượng cho
khát vọng, lí tưởng sống thanh cao, trong sạch, cho những gì đẹp đẽ bên trong
con người; còn xác là biểu tượng cho sự dung tục, tầm thường, những nhu cầu
bản năng của con người. - Màn đối thoại giữa hồn
và xác gửi gắm nhiều thông điệp có ý nghĩa triết lí: + Phản ánh bi kịch sống không được là
chính mình của Trương Ba. Dù Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng đó là
cuộc sống đáng hổ thẹn: phải sống chung với cái dung tục và bị hoàn cảnh sống
làm cho tha hóa. + Đặt ra vấn đề: con người cần được
sống là chính mình, phải có sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác. + Cảnh báo: khi con người phải sống
cùng với cái dung tục thì tất yếu sẽ bị nó ngự trị, lấn át và tàn phá những
gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người. Do đó, mỗi người cần phải đấu
tranh đấu tranh với chính mình, đấu tranh với hoàn cảnh để hoàn thiện nhân
cách; phải đấu tranh chống lại cái dung tục, cái giả tạo để cuộc sống trở nên
có ý nghĩa và tốt đẹp hơn. |
Đề 2.
Trong Cảnh
VII vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu
Quang Vũ, cuộc đối thoại giữa Hồn và
Xác diễn ra như sau:
“Hồn Trương Ba: Không! Ta vẫn có một đời
sống riêng: Nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…
Xác hàng
thịt: Nực cười
thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn
nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!
Hồn Trương
Ba: (Bịt tai
lại) Ta không muốn nghe mày nữa!
Xác hàng thịt: (Lắc đầu) Ông cứ việc bịt tai lại! Chẳng có cách
nào chối bỏ tôi được đâu! Mà đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức
mạnh. Ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông toé máu mồm máu mũi không? Cơn giận
của ông lại có thêm sức mạnh của tôi… Ha ha!
Hồn Trương
Ba: Ta cần gì
đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.
Xác hàng
thịt: Nhưng tôi
là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải lỗi tại tôi.. (Buồn rầu)
Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ! Tôi
là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới.
ông nhìn ngắm trời đất cây cối người thân…Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận
thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn con người,
người ta xâm phạm thể xác… Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin
vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho
thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác… Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám, chín bát cơm,
tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín
bát cơm cho tôi ăn chứ!
Hồn Trương
Ba: Nhưng..nhưng..
Xác hàng thịt: Hãy công bằng hơn, ông Trương Ba ạ! Từ nãy tới giờ
chỉ có ông nặng lời với tôi, chứ tôi thì vẫn nhã nhặn với ông đấy chứ? (thì
thầm). Tôi rất biết cách chiều chuộng linh hồn…
Hồn Trương Ba: Chiều chuộng?
Xác hàng
thịt: Chứ sao?
Tôi thông cảm với những “trò chơi tâm hồn của ông”. Nghĩa là: Những lúc một
mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết,
chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều
xấu gì ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: Cần phải
để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện! Hà hà, miễn
là.. ông vẫn làm đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát của tôi!
Hồn Trương
Ba: Lý lẽ của
anh thật ti tiện!
Xác hàng
thịt: Ấy đấy,
ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy! Có phải lí lẽ của tôi đâu, tôi chỉ nhắc lại
những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy chứ! Đã bảo chúng ta
tuy hai mà một!
Hồn Trương
Ba: (như tuyệt
vọng) Trời!
(TríchHồn
Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,
SGK Ngữ
văn 12, Tập 2, Nxb Giáo dục)
Cảm nhận bi kịch kiếp sống hồn
này, xác nọ của nhân vật Hồn Trương Ba trong những lời thoại trên. Từ đó nhận xét ý nghĩa thông điệp được
tác giả gửi gắm qua đoạn trích vở kịch.
Đáp án.
1. Giới thiệu được tác giả,
tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận |
- Lưu Quang Vũ
là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỷ
XX. - Kịch của Lưu
Quang Vũ đặc sắc trên nhiều phương diện: sự hấp dẫn của kịch bản văn học và
nghệ thuật sân khấu, sự kết hợp giữa tính hiện đại và với các giá trị truyền
thống, sự phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng.
Đáng chú ý nhất là vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” - Đoạn trích khắc họa bi kịch đau đớn của nhân vật Hồn Trương Ba. |
2. Cảm
nhận bi kịch
kiếp sống hồn này, xác nọ của nhân vật Hồn Trương Ba |
2.1. Khái quát chung - Hoàn cảnh sáng tác: Vở kịch “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” gồm 7 cảnh. Đoạn trích nằm ở cảnh VII và màn kết của
tác phẩm. - Nhan đề: Hồn Trương Ba, da hàng thịt mang ý nghĩa biểu tượng: phản
ánh hiện thực cuộc sống con người khi bị rơi vào nghịch cảnh, phải sống giả tạo
bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, không được sống là chính mình. - Nguồn gốc bi kịch: + Trương Ba là một làm vườn,
tính tình nhã nhặn, có tài đánh cờ nhưng do sai lầm của Nam Tào nên ông bị chết
nhầm. Khi phát hiện ra tắc trách, Đế Thích đã sửa sai bằng cách cho Trương Ba
sống lại trong xác hàng thịt. + Trú nhờ linh hồn trong xác
hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái, đau khổ. Đặc biệt thân xác
hàng thịt làm cho Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không
phải của chính bản thân ông. - Hồn Trương Ba thấy mình là
nguyên nhân gây nên mọi xáo trộn và bất an trong gia đình. Vì vậy, Hồn Trương
Ba bắt đầu soi ngắm lại chính mình, bày tỏ những day dứt thông qua hành động
và những lời độc thoại nội tâm thể hiện sự chán ngán, sợ hãi, căng thẳng, muốn
tách mình ra khỏi xác. - Tóm tắt đoạn thoại trước: + Hồn Trương Ba tỏ vẻ coi
khinh xác hàng thịt, phủ nhận giá trị của thể xác. + Xác hàng thịt đã phản bác lại,
khẳng định vị thế, xác nhận có tiếng nói riêng; nêu cụ thể những dẫn chứng cụ
thể về sự chi phối của xác đối với hồn. Trước lập luận chặt chẽ, thuyết phục
của xác, hSồn trở nên bất lực, đuối lí , chạy trốn: “Ta…ta…đã bảo mày im đi!” |
2.2. Nội dung: - Hồn Trương
Ba cố gắng đưa ra lý lẽ để cứu vãn: “Không!Ta
vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Dù đau
khổ nhưng hồn vẫn cương quyết tin vào sự tồn tại của mình, tin vào bản thân
mình. + Xác anh hàng thịt cười nhạo, mỉa mai,
chế giễu cái lí lẽ yếu đuối hồn và khẳng định vai trò của mình: “Nực cười thật!
Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận
là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!” + Xác khẳng định sự thật phũ phàng: “Chẳng có cách nào chối bỏ tôi được đâu! Mà
đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông có nhớ hôm ông tát
thằng con ông toé máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh
của tôi…” -> Như vậy,
đối với hồn, xác rất quan trọng vì nếu không có xác, hồn sẽ không có chốn
dung thân và ngược lại nếu không có hồn thì xác cũng chỉ “âm u đui mù”. Lý lẽ của Xác giúp chúng
ta nhận ra rằng xác hoàn toàn không vô nghĩa, nó có sức mạnh riêng và nó có
thể thay đổi nhân cách một con người, biến đổi một con người theo ý mình. Xác
đã buộc hồn phải thay đổi thái độ: từ cao ngạo, khinh bỉ đến lúng túng và yếu
ớt thừa nhận sự sống của thân xác. - Sau đó, Xác
ve vãn, an ủi, thuyết phục Hồn thỏa hiệp: + Xác “là hoàn cảnh” buộc Hồn “phải quy
phục”. + Xác “rất biết cách chiều chuộng linh hồn”. + Xác hạ giọng thì thầm, rủ rê hồn sống
giả dối: Xác sẽ thông cảm với “những trò chơi tâm hồn”, nhận hết mọi điều xấu
mà Hồn làm, miễn là Hồn vẫn “làm mọi việc
để thỏa mãn những thèm khát” của
xác. – Xác an ủi, dỗ
dành Hồn “Ông đừng nên tự dằn vặt làm
gì! … Phải sống hòa thuận với nhau thôi! Cái hồn vía ương bướng của tôi ơi,
hãy về với tôi này!” – Hồn TB nhận
thức được “lí lẽ ti tiện” của Xác nhưng dần đuối lí. Hồn đau khổ nhận ra sự
chế ngự, chi phối của thể xác nên kêu lên tuyệt vọng “Trời!” -> Phải sống
nhờ vào những yếu tố vật chất bên ngoài, không được sống đúng với con người
thực của mình, hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh sống dung tục, bị nó chi phối,
sai khiến là một trong những bi kịch đau đớn nhất của con người. => Qua cuộc đối thoại, ta thấy: + Hồn TB có cử chỉ, điệu bộ lúng túng; lời
thoại ngắn; giọng điệu thanh minh yếu ớt, tội nghiệp thể hiện sự khổ sở, bức
bối, xấu hổ khi nhận thấy mình ngày càng mất dần đi sự thanh cao. Hồn muốn
tách ra khỏi xác để có đời sống riêng độc lập, không phụ thuộc vào xác nhưng
bất lực. + Xác hàng thịt biết rõ sự lệ thuộc của
Hồn nên đã cười nhạo, ve vãn, phỉnh nịnh, thỏa hiệp hồn hãy theo mình bằng những
lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ. Giọng điệu khi mỉa mai, khi cao ngạo, khi châm chọc,
chê cười. => Ý nghĩa
cuộc đối thoại: + Bi
kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh, không được sống đúng với bản
chất của mình: phải sống nhờ, sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng
hóa. + Cuộc đấu tranh giữa hồn và xác là cuộc
đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người: giữa khát vọng sống
thanh cao của tâm hồn với những đòi hỏi tầm thường của thể xác. Đó là quy luật
của sự tồn tại và phát triển. + Trong cuộc sống, hồn và xác phải có
sự hài hòa với nhau. Không thể có sự đối lập giữa bên ngoài với bên trong, giữa
linh hồn và thể xác. Khi hồn và xác có sự vênh lệch thì cuộc sống con người sẽ
rơi vào bi kịch . + Phê phán những kẻ chạy theo ham muốn tầm thường về vật chất, thích
hưởng thụ nên trở thành dung tục, tầm thường. + Con người chỉ hạnh phúc khi được là
chính mình và sống với những gì mình có. 2.3. Nghệ thuật - Xung đột kịch độc đáo. - Ngôn ngữ kịch giàu chất triết lí. - Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần
phát triển tình huống kịch. - Kết hợp yếu tố hoang đường, hư cấu với hiện thực; kết hợp tính hiện
đại và truyền thống. - Sức phê phán mạnh mẽ và chất trữ tình bay bổng. - Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại linh hoạt, độc thoại nội tâm
sâu sắc. |
3. Nhận xét ý nghĩa thông điệp được tác giả gửi gắm qua
đoạn trích |
-
Được sống làm người là điều quý giá nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn
những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. -
Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên, có sự hài
hòa giữa thể xác và linh hồn. -
Con người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống
lại sự dung tục để hoàn thiện nhân
cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. |
4. Đánh giá chung |
- Ý nghĩa triết
lí nhân sinh sâu sắc của vở kịch đối với cuộc sống hôm nay và mai sau. - Lưu Quang Vũ
xứng đáng là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ
thuật Việt Nam hiện đại. |
Đề 3.
Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không
thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!
Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều
được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống
theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi
cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời
đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của
ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải
người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống
nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế
nào thì ông chẳng cần biết!
(Trích Hồn
Trương Ba, da hàng thịt, Ngữ văn
12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2013,
tr.149)
Cảm nhận
khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba thể hiện trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về chiều sâu triết lí
được gửi gắm qua đoạn trích.
Đáp án
1. Giới thiệu được tác giả,
tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận |
- Trong làng kịch
nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng đặc biệt của
sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều
lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh... nhưng ông được
xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật
Việt Nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt. - Đoạn trích
là cuộc đối thoại giữa Trương Ba và
Đế Thích, Lưu Quang Vũ đã làm rõ khát vọng được sống là chính mình của Hồn
Trương Ba. |
2. Cảm
nhận khát vọng
của nhân vật Hồn Trương Ba |
2.1. Khái quát chung hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại - Sau ba tháng ngụ cư trong xác hàng thịt, Trương Ba ngày càng trở nên
xa lạ với chính mình và với người thân, bị người thân nghi ngờ, thậm chí coi
thường, căm ghét và ruồng rẫy. - Trong tâm trạng
đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình, trước cái chỗ ở
không phải của mình, Hồn Trương Ba khao khát tách xa, rời khỏi thể xác thô lỗ:
Ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!. |
2.2. Nội dung: a. Khao khát được thoát ra khỏi nghịch cảnh, không phải
sống nhờ trong thân xác anh hàng thịt: - Trương Ba nhận
ra mình đang bị tha hoá, nhiều khi phải thoả hiệp với những đòi hỏi của xác
hàng thịt. Vì thế, hồn không còn giữ được sự trong sạch, thẳng thắn như trước
đây. - Ông luôn bị
dằn vặt, day dứt bởi tình trạng: bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo. b. Khao khát được sống là chính mình: - Khi đối thoại với Đế Thích, Trương Ba
nói rõ ý nguyện của mình: Tôi muốn
được là tôi toàn vẹn – có sự hòa
hợp giữa thể xác và linh hồn. Lời thoại cho thấy sự thay đổi trong nhận thức
của Hồn Trương Ba: từ chỗ đánh giá phiến diện về thân xác con người, Trương
Ba đã có cái nhìn đúng đắn về sự thống nhất, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
- Niềm khao khát
được là tôi toàn vẹn còn cho thấy nhân cách cao đẹp của Hồn
Trương Ba. Nhân vật đã không còn chấp nhận sống chung với cái thô lỗ tầm thường,
dung tục mà bắt đầu chống lại sự sai khiến của nó, muốn được trở về sống trọn
vẹn với cuộc sống lương thiện, trong sáng, tốt đẹp vốn có. 2.3. Nghệ thuật - Nghệ thuật xây dựng mâu thuẫn kịch: chặt chẽ, logic, hợp lý. Các chi tiết, hành động
kịch nối tiếp nhau, đẩy mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh cao, tạo nên kịch tính vô
cùng căng thẳng, hấp dẫn. -
Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật: thông qua ngôn ngữ, hành động kịch, tác giả đã thể hiện tâm trạng phức
tạp của nhân vật Hồn Trương Ba. - Ngôn ngữ kịch: giản dị, sáng rõ, đặc biệt rất giàu tính triết
lý. |
3. Nhận
xét về chiều sâu triết
lí được gửi gắm qua đoạn trích |
- Con
người muốn có cuộc sống hạnh phúc cần phải có sự hài hoà giữa thể xác và linh
hồn, giữa vật chất và tinh thần, được sống là chính mình. - Cuộc
sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người tìm thấy tình yêu thương, sự sẻ
chia của những người xung quanh, đặc biệt là những người thân yêu trong gia
đình. - Được
sống là điều may mắn nhưng sống thế nào cho thật ý nghĩa mới là điều quan
trọng. |
4. Đánh giá chung |
- Khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba: Sống
là chính mình, không chấp nhận lối sống gửi, sống nhờ. Biết đấu tranh chống lại
sự dung tục, tầm thường để giữ gìn nhân cách. Khát vọng đó đã làm sáng lên nhân cách tốt đẹp,
cao cả của nhân vật Hồn Trương Ba. - Đoạn
trích góp phần thể hiện tài năng và phong cách nghệ thuật của
Lưu Quang Vũ. |
Đề 4.
Đế Thích: Ông Trương Ba...
(đắn đo rất lâu rồi quyết định) Vì lòng quí mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại,
dù có bị phạt nặng... Nhưng còn ông... rốt cuộc ông muốn nhập vào thân thể ai?
Hồn Trương Ba: (sau một hồi lâu):
Tôi đã nghĩ kĩ... (nói chậm và khẽ) Tôi không nhập vào hình thù ai nữa!
Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!
Đế Thích: Không thể được! Việc
ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sửa bằng
cách làm cho hồn ông được sống.
Hồn Trương Ba: Có những cái
sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là
đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Việc đúng còn
làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn...
Đế Thích: Không! Ông phải sống,
dù với bất cứ giá nào...
Hồn Trương Ba: Không thể sống
với bất cứ giá nào được, ông Đế Thích ạ! Có những cái giá đắt quá, không thể trả
được... Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm
thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng
như xưa...
Đế Thích: Ông có biết ông quyết
định điều gì không? Ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự
vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông
cũng không có được nữa.
Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông
tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là cái chết.
Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì
tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được? Cuộc
sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần
hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc.
(Lưu Quang Vũ, Hồn
Trương Ba,da hàng thịt
Ngữ văn 12, tập
hai, NXB Giáo dục - 2008, tr.151-152)
Cảm nhận của
anh/chị về nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.
Đáp án
1. Giới thiệu được tác giả,
tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận |
- Trong làng kịch
nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng đặc biệt của
sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều
lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh... nhưng ông được
xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật
Việt Nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở
"Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc
đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng
sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt. - Đoạn trích khi nhân vật Hồn Trương Ba đối
thoại với Đế Thích cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật hồn TB và chiều sâu
triết lí về con người của nhà biên kịch Lưu Quang Vũ. |
2. Cảm
nhận |
2.1. Khái quát chung -
Hồn Trương Ba, da hàng thịt
là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984,
sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian,
Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó
nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. - Vị trí, nội
dung đoạn trích: thuộc đoạn cuối của cảnh VII |
2.2. Nội dung: - Hoàn cảnh xuất
hiện cuộc đối thoại: Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi,
thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc
trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của tiên cờ Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống
trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương
Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải
sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất
trong sạch, ngay thẳng của mình, bị người thân từ chối. Ý thức được điều đó,
Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác
thịt, không chấp nhận để Đế Thích cho nhập vào xác cu Tị. - Nhân vật hồn
Trương Ba phê phán sai lầm của Đế Thích: + Đế Thích gợi ý để hồn rời xác anh hàng thịt sang xác cu Tị. Nhưng hồn
Trương Ba, sau một “quãng đời” vô cùng thấm thía đã qua, hình dung ra những
“nghịch cảnh” khác khi phải sống trong thân xác một đứa bé đã quyết định xin
cho cu Tị được sống và mình được chết hẳn. + Thần thánh cũng sai lầm, qua lời
của Đế Thích: Việc ông phải chết chỉ là một sai lầm của quan thiên đình.
Cái sai ấy đả được sửa bằng cách làm cho hồn ông được sống. Nghe Đế Thích
trần tình như thế, Hồn Trương Ba đã đáp lại: Có những cái sai không thể sửa
được. Chắp vá gượng ép chỉ làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa,
hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Hồn Trương Ba đã lí luận đúng,
Trương Ba phải chết vì sự sai lầm cùa các thần quan trên thiên đình. Từ sai lầm
ấy và vì tính háo danh, muốn “người trên trời, dưới đất mới biết tới cao cờ
như thế nào” nên Đế Thích mới chắp vá, gượng ép” cho hồn Trương Ba nhập vào
xác hàng thịt. Việc làm này không chỉ mang đến nỗi khổ cho Trương Ba mà còn với cả những
người thân của ông. Cũng vì ích kỉ, háo danh mà Đế Thích lại định phạm một
sai lầm khác là cho Hồn Trương Ba nhập vào cu Tị, (nếu Hồn Trương Ba không kịch
liệt phản đối). - Nhân vật hồn
Trương Ba có quan niệm sống đúng đắn: sống là chính mình, sống vị tha, cao
thượng, nhân hậu: + Dù rất ham sống: Ông tưởng tôi
không ham sống hay sao? nhưng Hồn Trương Ba lại quyết định không muốn nhập vào hình thù ai nữa vì
hơn ai hết ông thấu hiểu nỗi khổ của bản thân mình khi phải nương nhờ vào
thân xác của người khác.Ông cũng không muốn những người thân của mình phải khổ,
phải liên lụy vì mình. + Với quyết định này, Trương Ba đã tự viết nên cái kết có hậu cho cuộc đời
mình và cho những người xung quanh. Mặc dù, sự sống của Trương Ba đã sắp đi đến
hồi kết thúc nhưng ông đã tìm lại được con người thật của chính bản thân
mình: Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm
thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong
sáng như xưa. Không chỉ phục sinh những giá trị tốt đẹp của bản thân,
Trương Ba còn trở nên bất tử trong suy nghĩ của tất cả những người thân bằng
tình cảm nhớ thương, yêu quý. + Hồn Trương Ba lại phải
giải thích rằng cũng ham sống lắm, nhưng sống mà mình không còn là mình, bắt
người thân phải khổ vì mình thì đó là cái giá không thể trả được. Và Hồn
Trương Ba đã bất ngờ đặt ngược lại vấn đề rồi đi đến kết luận một cách thép: Cuộc
sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương
tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc. + Cách giải quyết của Hồn Trương Ba là duy nhất đúng và toàn vẹn nhất dù
lựa chọn đó có thể khiến Hồn Trương Ba vĩnh viễn rời xa cuộc đời này, thậm
chí “cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa”. Chỉ khi “chết
hẳn”, Hồn Trương Ba mới tìm lại được sự thanh thản, trong sáng; những người
thân của Trương Ba cũng sẽ không còn phải khổ vì ông; thằng con của Trương Ba
sẽ có cơ hội trở lại con đường ngay thẳng. Cho đến phút cuối cùng, Hồn Trương
Ba vẫn rất nhân hậu, vị tha. => Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế
Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi
hài của mình; thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn
và xác; đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát của nhân vật. Qua màn đối
thoại, tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh
mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời đại chúng ta đang sống, đồng thời
ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại
sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên
cùng sự hoàn thiện nhân cách. 2.3. Nghệ thuật - Sáng tạo lại cốt truyện dân gian. - Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của
nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống kịch.
- Có chiều sâu triết lý khách quan. |
3. Nhận xét
chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ |
- Màn thoại giữa
Trương Ba và Đế Thích một lần nữa khắc sâu vấn đề trung tâm nhất, cốt lõi nhất
của toàn bộ tác phẩm, đó là việc người sống vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn
và thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Việc một người vẫn còn đầy khao khát
sống như Trương Ba sau quá trình trăn trở, lựa chọn đã chối từ cả hai cơ hội
được sống để nhận về mình cái chết đã cho thấy để sống cho ra một người không
hề dễ dàng. Người ta không thể sống bằng bất cứ giá nào, mỗi người chỉ thực sự
được là mình khi có sự thống nhất, hòa hợp giữa những biểu hiện bên ngoài với
tâm trạng, cảm xúc bên trong. - Tác giả không chỉ đặt ra vấn đề để người
đọc trăn trở, suy nghĩ mà đã đi đến trả lời cho câu hỏi: sống như thế nào là
sống có ý nghĩa? Trương Ba chết hẳn để đổi lại sự sống cho anh hàng thịt,
cho cu Tị, để đổi lấy tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những người
xung quanh thì câu hỏi: sống như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một
cách rõ ràng: một sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống
vì mình mà còn biết sống, biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của
những người xung quanh. Rõ ràng ở đây nhà văn đã đề cao lối sống vị tha, cao
thượng. Đó cũng chính là lý do cho sự thay đổi đầy dụng ý của tác giả khi biến
một người nông dân chung chung trong truyện cổ dân gian thành một người làm
vườn trong tác phẩm của mình. Hình tượng người làm vườn chính là đại diện cho
những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh phúc của người khác. Ở khía cạnh
này chúng ta thấy tư tưởng của nhà văn dù tiến bộ và mới mẻ đến đâu vẫn có sự
bắt rễ sâu và hoàn toàn thống nhất với truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc. |
4. Đánh giá chung |
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp nhân vật hồn
Trương Ba qua đoạn trích; - Nêu cảm nghĩ
về quan niệm về lẽ sống đẹp dành cho con người. |
Đề 5.
Vườn cây rung rinh ánh sáng. Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị
đang ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa cuống quýt vuốt ve con. Bà vợ Trương Ba xuất hiện
ở phía trước sân khấu.
Vợ Trương Ba: Ông ở đâu? Ông ở đâu?
(Giữa màu xanh cây
vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện)
Trương Ba: Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay
bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo
gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy cỏ… Không phải mượn thân xác
ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc
đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu.
(Dưới một gốc cây,
hiện lên cu Tị và cái Gái)
Cái Gái: (Tay cầm
một trái na) Cây na này, ông nội tớ trồng đấy. Quả to mà ngon lắm. Ta ăn chung
nhé!
(Bẻ quả na đưa cho
cu Tị một nửa. Đôi trẻ ăn ngon lành. Cái Gái lấy những hạt na vùi xuống đất.)
Cu Tị: Cậu làm gì
thế?
Cái Gái: Cho nó
mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi
mãi…
(Trích
Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,
Ngữ
văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, tr.153)
Cảm nhận nhân vật Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó nêu
lên ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân sinh sâu sắc mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
Đáp án
1. Giới thiệu được tác giả,
tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận |
– Trong làng kịch nói Việt Nam có lẽ ai cũng
biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường
những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện
ngắn soạn kịch làm thơ vẽ tranh… nhưng ông được xem là một trong những nhà
soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. – Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ đáng chú
ý nhất là vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm
độc đáo cảnh VII đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư
tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt. - Phần kết vở kịch cho thấy niềm hạnh phúc
của TB khi được là chính mình. |
2. Cảm
nhận nhân vật
Trương Ba |
2.1. Khái quát chung – Trương Ba, gần 60 tuổi- là một người làm
vườn tốt bụng, đặc biệt rất cao cờ. Do tắc trách, Nam Tào gạch bừa tên Trương
Ba, khiến ông phải chết oan. Theo gợi ý của Đế Thích, để sửa sai, Nam Tào cho
hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng thịt ở làng bên vừa mới chết, mới ngoài
30 tuổi, để được sống lại. – Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba
gặp rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng; gia
đình Trương Ba ngày càng lủng củng. Trương Ba dần dà tiêm nhiễm một số thói
xấu và những nhu cầu vốn xa lạ với ông. Không những vậy, những người thân
trong gia đình cũng ngày càng xa lánh khiến ông rất đau khổ. Trước nghịch
cảnh ấy, Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng thịt, cũng không chấp
nhận nhập vào xác cu Tị, kiên quyết chấp nhận cái chết. |
2.2. Nội dung: – Kết thúc vở kịch, Trương Ba chết, nhưng hồn
ông vẫn còn đó “giữa màu xanh cây vườn,
Trương Ba chập chờn xuất hiện”, và ông đã nói với vợ mình những lời tâm
huyết, hàm chứa ý nghĩa “Tôi đây bà ạ.
Tôi ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta… Không phải mượn thân ai
cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc
đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”. Những lời nói của Trương Ba, phải chăng đó là
sự bất tử của linh hồn trong sự sống, trong lòng người. Điều đó tô đậm thêm
nhân cách cao thượng của Trương Ba và khắc sâu thêm tư tưởng nhân văn của tác
phẩm. – Cu Tị sống lại và đang cùng ngồi với cái
Gái trong khu vườn. Cái Gái “Lấy hạt na
vùi xuống đất…” cho nó mọc thành
cây mới. Ông nội tớ bảo thế. Những cây sẽ nối nhau mà khôn lớn. Mãi mãi…” Hình ảnh cái Gái ăn quả Na rồi vùi hạt xuống
đất: +
Biểu tượng cho sự tiếp nối những truyền thống tốt đẹp (“Ông nội tớ bảo vậy”) là tâm hồn, là nhân cách Trương Ba. +
Biểu tượng cho sự sống bất diệt của những giá trị tinh thần mang tính nhân
văn cao đẹp (“mãi mãi”). +
Khẳng định niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện và cái đẹp. – Ý nghĩa của sự sống nhiều khi không phải ở
sự tồn tại sinh học mà chính là sự hiện diện của người đã khuất trong tâm
tưởng, nỗi nhớ, tình yêu của những người còn sống. Vẻ đẹp tâm hồn sẽ trường
tồn dài lâu, bất tử so với sự tồn tại của thể xác -> Đây là một đoạn kết giàu chất thơ với
ngôn từ tha thiết, thấm đẫm tình cảm và có dư ba bởi những hình ảnh tượng
trưng về sự sống nảy nở (“ vườn cây
rung rinh ánh sáng, hai đứa trẻ cùng ăn quả na rồi gieo hạt na xuống đất cho
nó mọc thành cây mới). Đó là khúc ca trữ tình ca ngợi sự sống, ca ngợi
những giá trị nhân văn mà con người luôn phải vươn tới và gìn giữ. 2.3. Nghệ thuật - Vở kịch được khai thác từ cốt truyện dân
gian. Kịch tính xoay quanh xung đột bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ
hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, giàu triết lí nhân
sinh. |
3. Nhận
xét về ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân sinh sâu sắc |
– Lưu Quang Vũ muốn phê phán một số biểu hiện
tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: con người đang có nguy cơ chạy theo
những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên
phàm phu, thô thiển. – Lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần
là đáng trọng mà không chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn
đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan,
đáng phê phán. – Tình trạng con người phải sống giả, không
dám và cũng không được sống là chính mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến
chỗ bị tha hóa do danh và lợi. |
4. Đánh giá chung |
Qua Đoạn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc
thông điệp: được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình,
sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống
chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa
thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh,
với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới
những giá trị tinh thần cao quý. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét