THÔNG TIN MỚI

🚀 "Hãy không ngừng học hỏi, thành công sẽ đến!" 💡 "Kiên trì là chìa khóa của thành công!" 🌟 "Nỗ lực hôm nay, tỏa sáng ngày mai!" 🔥 "Tương lai của bạn được xây dựng từ hôm nay!"

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2024

NGỮ VĂN 12 - TÀI LIỆU ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024

 

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIA LAI
TRƯỜNG THPT
PHAN CHU TRINH

 

 

 

 

ĐỀ SỐ 01                                                        Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 01 trang)         Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I.      ĐỌC HIỂU3.0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Jonathan, một người có bộ óc thông minh, nhanh nhạy trong những phân tích về tình hình
kinh tế, ông sống và làm việc hết sức chăm chỉ. Hiện Jonathan đang là một tỉ phú. Và Authur
cũng là một người có trí óc thông minh không kém, chỉ cần 30 phút để giải ô chữ của tờ
NewYork, phân tích tình hình kinh tế MĩLatinh trong vòng nửa giờ và tính nhẩm nhanh hơn
hầu hết mọi người dù họ có dùng máy tính. Nhưng hiện giờ Authur đang là tài xế của Jonathan.
Điều đó giúp Jonathan đường hoàng ngồi ở băng ghế sau của xe limousine còn Authur thì ở
phía trước cầm lái? Điều gì phân chia mức độ thành đạt của họ? Điều gì giải thích sự khác
biệt giữa thành công và thất bại ?

Câu trả lời nằm trong khuôn khổ một cuộc nghiên cứu của trường đại học Standford.
Những nhà nghiên cứu tập hợp thật đông những trẻ em từ 4 đến 6 tuổi, sau đó đưa chúng vào
một căn phòng và mỗi em được phát một viên kẹo. Chúng được giao ước: Có thể ăn kẹo ngay
lập tức hoặc chờ thêm mười lăm phút nữa sẽ được thưởng thêm một viên kẹo cho sự chờ đợi.
Một vài em ăn kẹo ngay lúc đó. Những em khác thì cố chờ đợi để có phần kẹo nhiều hơn. Nhưng
ý nghĩa thực sự của cuộc nghiên cứu chỉ đến mười năm sau đó, qua điều tra và theo dõi sự
trưởng thành của các em. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những đứa trẻ kiên trì chờ đợi
phần thưởng đã trưởng thành và thành đạt hơn so với những đứa trẻ vội ăn ngay viên kẹo.

Điều đó giải thích ra sao? Điểm khác biệt mấu chốt giữa thành công và thất bại không
chỉ đơn thuần là việc chăm chỉ hay sở hữu bộ óc của thiên tài mà đó chính là khả năng trì hoãn
những mong muốn tức thời. Những người kiềm chế được sự cám dỗ của “ Những viên kẹo ngọt”
trên đường đời thường vươn tới đỉnh cao thành công. Ngược lại, những ai vội ăn hết phần kẹo
mình đang có thì sớm hay muộn cũng rơi vào cảnh thiếu thốn, cùng kiệt.(...) Có thể nói, cuộc
đời như một viên kẹo thơm ngọt, nhưng khi nào thưởng thức và thưởng thức nó như thế nào thì
đó là điều chúng ta phải tìm hiểu.

(Trích Không theo lối mòn - Joachim de Posada & Ellen Singer, NXB Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, 2016, tr. 03)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2. Theo tác giả, sự khác biệt cơ bản giữa thành công và thất bại là gì?

Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến “những đứa trẻ kiên trì chờ đợi phần thưởng đã
trưởng thành và thành đạt hơn so với những đứa trẻ vội ăn ngay viên kẹo”?

Câu 4. Thông điệp nào của đoạn trích có ý nghĩa nhất với anh/ chị?

II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200
chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về bài học của sự thành công trong cuộc sống.

Câu 2 (5.0 điểm)

«... Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được                             

Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức... »

(Trích Sóng - Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016,
tr.155)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Qua đoạn thơ, hãy liên hệ với tình yêu của tuổi trẻ hiện
nay.

ĐỀ SỐ 02                                                          Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 01 trang)         Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Trong thế giới thay đổi nhanh chóng này, mọi người đều cần có kỹ năng học tập suốt đời.
Tuy nhiên, kỹ năng này yêu cầu tính tự giác kỷ luật và kiên trì vì mỗi người phải chịu trách
nhiệm cho việc học của mình.

Cũng như tập thể dục giúp cho cơ bắp phát triển mạnh mẽ, việc học liên tục làm cho trí não
trở nên tích cực, năng động hơn. Với họ, học tập suốt đời là quá trình trưởng thành, thay đổi
và thích nghi; thậm chí khi đã lớn tuổi, trí não của họ vẫn còn tỉnh táo. Trái lại, có những người
tin rằng việc học dừng lại sau khi họ rời khỏi ghế nhà trường. Họ không thích thay đổi, chỉ ưa
thích làm theo thói quen, làm cùng một điều mà không suy nghĩ nhiều. Đến tuổi trung niên, họ
đã có triệu chứng lãng quên hay dấu hiệu sớm của bệnh Alzheimer.

Có những người có tính tò mò với ham muốn tìm ra mọi thứ. Họ không chấp nhận điều họ
được nói cho biết, mà tự nghiên cứu cho đến khi họ hiểu đầy đủ. Họ tin rằng học từ người khác
là hời hợt, còn tự tìm hiểu thì tốt hơn. Họ tích cực làm theo cách riêng của mình để học được
nhiều hơn, cho đến khi họ hiểu mọi thứ. Họ đặt ra các câu hỏi giúp họ đưa tri thức mới vào bối
cảnh rộng lớn hơn. Họ muốn phát triển các quy tắc và công thức trong tâm trí họ về cách mọi
thứ khớp nối với nhau. Với họ, học tập suốt đời là quá trình thám hiểm để thỏa mãn nhu cầu
hiểu biết của họ.

(Trích Bước ra thế giới, Giáo sư John Vu, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr
97)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích.

Câu 2. Theo tác giả, việc học liên tục tác động như thế nào đến trí não của con người?

Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong câu Với họ, học tập suốt
đời là quá trình thám hiểm để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của họ.

Câu 4. Những bài học về lẽ sống anh/chị rút ra sau khi đọc đoạn trích?

II.       LÀM VăN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của anh/chị về vai trò của việc học tập suốt đời.

Câu 2 (5,0 điểm)

Trong bài thơ Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc.

Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi.

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ.

(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 118, 119)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét vẻ đẹp chất liệu văn hóa dân gian trong
thơ Nguyễn Khoa Điềm.

--------------------- hết                               


I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Trong mỗi chú bé đều âm ỉ giấc mơ bay lên. Tôi cũng thế. Em chắc vẫn còn nuôi giấc
mơ đó. Nhưng khi lớn lên, đôi khi những tầng mây thâm thấp thôi cũng khiến ta như bị che
khuất tầm nhìn. Tệ hơn, những tầng mây sũng nước thậm chí có thể che khuất cả những giấc
mơ, đè nén khát vọng của mỗi người. Một ngày mây mù có thể khiến ta yếu ớt và bi lụy. Một
chút thất bại cũng giống như mây mù kéo đến, có thể làm em rút vào tổ kén bi quan. Ai đó nói
rằng cách tốt nhất để hóa giải khó khăn là đi xuyên qua nó. Đi xuyên qua mây mù bằng giấc
mơ phi công giữ gìn từ thơ bé. Đi xuyên qua gian khó bằng lòng lạc quan. Đi xuyên qua u mê
bằng khao khát hướng đến trí tuệ, thông sáng. Đi xuyên qua thất bại bằng sự điềm đạm trưởng
thành.

Vì triệu năm đã là như thế, cuộc đời có hôm nắng đẹp, có ngày mưa dầm, có tuần mây
đen như đè nặng, có khoảnh khắc u ám tối dạ, rỗng đầu, nhưng mặt trời vẫn mọc mỗi sớm mai.
Không phải ai cũng trở thành phi công lái Airbus hay Boeing đúng y như giấc mơ tuổi nhỏ.
Nhưng ai cũng có thể học cách giữ cho mình giấc mơ bay xuyên qua những tầng mây, đón nắng
rọi sáng tâm hồn khiến nụ cười luôn nở trên môi.

(Dan theo Hà Nhân, Bay xuyên những tầng mây, NXB Văn học. 2016, tr. 98)
Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích.

Câu 2: Theo tác giả, làm thế nào để hóa giải những khó khăn trong cuộc sống?

Câu 3: Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp liệt kê trong câu: “Vì triệu năm đã là như thế,
cuộc đời có hôm nắng đẹp, có ngày mưa dầm, có tuần mây đen như đè nặng, có khoảnh khắc u
ám tối dạ, rỗng đầu, nhưng mặt trời vẫn mọc mỗi sớm mai”.

Câu 4: Anh/ chị có đồng ý với ý kiến: “Ai cũng có thể học cách giữ cho mình giấc mơ bay
xuyên qua những tầng mây, đón nắng rọi sáng tâm hồn khiến nụ cười luôn nở trên môi”.

II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình
bày suy nghĩ về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người.

Câu 2. (5,0 điểm)

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thêm
Rải rác biên cương, mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

(Trích “Tây Tiến” - Quang Dũng, Ngữ văn 12, tậpl, NXB Giáo dục, 2008, tr.89)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, rút ra nhận xét âm hưởng bi tráng về hình tượng
người lính trong thơ Quang Dũng.


ĐỀ MINH họa chuẩn 2023

' ĐỀ SỐ 04

(Đề bài gồm 01 trang)

I.      Đọc hiêu (3,0 điêm)

Đọc đoạn trích:

Trong mỗi người chúng ta có chứa đựng hai phần đối lập - bóng tối và ánh sáng. Để
hạnh phúc luôn mỉm cười, ta cần phát huy mặt tốt và không phủ nhận mặt xấu trong con người
mình. Khi không dám đối diện với nỗi sợ hãi và cơn ác mộng dày vò tâm trí, ta sẽ gián tiếp
khước từ những cảm xúc tốt đẹp đang hiện hữu trong trái tim mình. Và cứ thế bóng tối dần xâm
chiếm và bao phủ lên những điều tuyệt vời ta đang có. Ngược lại nếu ta can đảm đương đầu và
chiếu rọi ánh sáng vào những vùng tối tăm, bóng tối sẽ lùi lại và tan biến.

Thật vậy, sự trưởng thành của mỗi người phụ thuộc vào sự dũng cảm đối mặt với thử thách
- những thử thách không chỉ ở thế giới bên ngoài mà còn ở thế giới nội tâm. Bóng tối sẽ không
thể tồn tại nếu ta phơi bày nó trước ánh sáng của sự thiện tâm, lòng nhân hậu và sự khoan
dung, bởi chẳng có bóng tối nào trên thế gian này có sức mạnh và quyền năng to lớn bằng tình
yêu.

(Tian- Dayton, Ph, D, Quên hôm qua sống cho ngày mai, NXB Tổng hợp TPHCM, Tr
129)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.

Câu 2: Theo tác giả để hạnh phúc luôn mỉm cười ta phải làm gì?

Câu 3: Nêu hiệu quả của phép liệt kê được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 4: Em có đồng tình với quan điểm: Sự trưởng thành của mỗi con người phụ thuộc
vào sự dũng cảm đối mặt với thử thách?

II. lÀm văn (7,0 điêm)

Câu 1. (2,0 điêm)

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200
chữ) trình bày suy nghĩ về sức mạnh của tình yêu thương.

Câu 2. (5,0 điêm)

Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu có viết:

Text Box: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi
đầy.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng

nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi

về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

(Việt Bắc - Tố Hữu, Ngữ văn 12, tập 1, NXB GD, 2008, trang

110,111)

Cảm nhận của anh/chị về nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ
trên. Từ đó, nhận xét về tính dân tộc trong phong cách thơ Tố Hữu.

         —-hếT              


I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Kìa cái bông hoa làm con ngã

Kìa tiếng chim sẻ cười làm con nín khóc

Kìa cái nắng dắt con dạo chơi

Cha mẹ đi làm, con một mình tha thẩn

Ngã, đứng dậy, khóc, cười một mình...

Bốn mươi tuổi rồi, lắm khi

Cha cũng ngã, đứng dậy, khóc cười một mình
Cuộc đời cha dễ đâu toàn vẹn

(“Buổi đầu”. Thơ Nguyễn Khoa Điềm, tuyển tập 40 năm do tác giả chọn, NXB Văn học, 2012)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1: Xác định thể thơ của văn bản.

Câu 2: Xác định 02 biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản?

Câu 3: Anh chị hiểu như thế nào về hình ảnh: “ngã, đứng dậy, khóc cười một mình ” trong những
câu thơ sau:

“Cha mẹ đi làm, con một mình tha thẩn

Ngã, đứng dậy, khóc, cười một mình...

Bốn mươi tuổi rồi, lắm khi

Cha cũng ngã, đứng dậy, khóc cười một mình”

Câu 4: Anh chị có suy nghĩ gì về niềm mong đợi của cha trong những câu thơ:

Con hãy nắm chắc thế giới này trong hai tay

Ngay tự buổi đầu:

Những chim,
Những hoa,
Những nắng...

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Anh/Chị hãy viết một đoạn văn (Khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về cách đối
diện với những nỗi buồn trong cuộc sống.

Câu 2 (5,0 điểm)

Cảm nhận của anh/chị về hình tượng Sông Đà trong trích đoạn sau. Từ đó nhận xét về
tình cảm của Nguyễn Tuân dành cho Sông Đà

“Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao
sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông
núi, thì mỗi lúc mà ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen
thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa
xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô.
Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận
dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như
thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ
thế màphiết vào bản đồ lai chữ”.

(Trích Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, tr.190-191, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt
Nam)

I.      ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)

Đọc đoạn trích:

“Ơi cơn mưa quê hương

Mưa là khúc nhạc của bài ca êm mát
Những đêm ta nằm nghe mưa hát, mưa ơi
Nghe mưa đập cành tre, nghe mưa rơi tàu lá
Thầm thì rào rạt vang xa ...

Có lúc bỗng phong ba dữ dội

Mưa đổ ào như thác dồn trăm lối
Giấc mơ xưa có chớp giật, sấm gầm
Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa mưa giông
Nghe như tiếng của cha ông dựng nước
Truyền con cháu phải ngẩng cao mà bước
Nghe như lời cây cỏ, gió mưa
Đang hát tiếp bài ca bất khuất ngàn xưa”

(Nhớ mưa quê hương - Lê Anh Xuân)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.

Câu 2 .Chỉ ra biện pháp tu từ trong câu: “Những đêm ta nằm nghe mưa hát, mưa ơi ”

Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về những câu thơ sau:

“Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hòa mưa giông
Nghe như tiếng của cha ông dựng nước”

Câu 4. Thông điệp mà anh/chị tâm đắc nhất qua đoạn trích trên là gì?

II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy
nghĩ của mình về trách nhiệm của tuổi trẻ với quê hương đất nước?.

Câu 2. (5,0 điểm)

Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua
bên kia vách. Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở
hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào
vửa tắt phụt đèn điện.

Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ
người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng
dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước
ở đây thở và kêu như cửa sống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay


lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy,
thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho
nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái
cho vững mà phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như rót dầu
sôi vào. Những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tụt
xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược
rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn
truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành
rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy hút Sông Đà-từ đây cái hút nhìn
ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhautới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi
thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược
contre-plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh
ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả
người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoát tít
đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế
như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên
cái gậy đánh phèn.

(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXB GD,
H.2012)

Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận
xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân.

.                                                    . ...................... Hết..............................


Thực hiện các .yêu cầu sau:

Câu 1 (0.75 điểm): Hãy xác định thể thơ của đoạn trích trên.

Câu 2 (0.75 điểm): Sự khô cằn và thiếu nước của vùng đất nơi tác giả sống được gợi ra qua những hình ảnh nào?
Câu 3 (1.0 điểm): Nêu hiệu quả của phép nhân hoá được sử dụng trong đoạn trích sau:

“Đào bằng nôi đau của con đường rạn nứt

Bằng sự trả ơn cây lúa nuôi mình
Bằng màu xanh đời được hồi sinh
Bằng lời trách cây dứa gai thiếu nước
Bằng nôi giận hàng phi lao không hát
Chúng tôi đào bằng nôi khát lòng tin ”
Câu 4 (0.5 điểm): Anh chị rút ra bài học gì cho bản thân từ nội dung hai câu thơ sau?

Trận mưa này mưa từ lòng đất

Trận mưa này, mưa của chúng tôi

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ về ý nghĩa của việc vượt lên nghịch cảnh trong cuộc sống.

Câu 2. (5,0 điểm)

Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn
mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa
xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu
nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất
mãn bực bội gì môi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con
sông ta ra đô mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.

Con Sông Đà gợi cảm. Đối với môi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như
một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu đã thấy thèm chô thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên
đi mất là mình sắp đô ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa
tam nguyệt há Dương Châu ”. Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông
con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi
lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là
lắm bệnh mà chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy..

(Nguyễn Tuân, Người lái đò Sông Đà (trích), Ngữ văn 12, tập một, NXB GDVN, 2019, tr. 186 - 187)


Cảm nhận về vẻ đẹp của con sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về chất thơ trong đoạn trích.
                                        .......’....hết--------

ĐỀ MINH họa chuẩn 2023                      ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2023

' ĐỀ SỐ 08                                                              Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 02 trang)              Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I.      Đọc hiểu (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Người ta thường nói: “Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không
tạo ra người đứng dưới người”. Kể từ khi tạo hóa làm ra con nqười thì tất cả sinh ra
đều bình đẳng, mọi người đều có tư cách, có địa vị như nhau, không phân biệt đẳng cấp
trên dưới, giàu nghèo.

Loài người - chúa tể của muôn loài - bằng hoạt động trí óc và hoạt động chân
tay mà biến mọi thứ có trên thế gian thành vật có ích cho bản thân mình. Nhờ thế mà
thỏa mãn được nhu cầu ăn, mặc, ở, sống tự do theo ý muốn và không làm phiền, làm
cản trở cuộc sống của đồng loại (...). Vậy mà nhìn rộng ra khắp xã hội, cuộc sống con
người luôn có những khoảng cách một trời một vực. Đó là khoảng cách giữa người
thông minh và kẻ đần độn; giữa người giàu và người nghèo; giữa tầng lớp quý tộc và
tầng lớp hạ đẳng.

Như thế là tại làm sao? Nguyên nhân thực ra rất rõ ràng. Cuốn sách dạy tu thân
“Thực ngữ giáo” có câu: “Kẻ vô học là người không có tri thức, kẻ vô tri thức là người
ngu dốt”. Câu nói trên cũng có thể hiểu: sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần
độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.

...Như tôi đã đề cập: ở con người vốn dĩ không có chênh lệch sang hèn, giàu
nghèo. Vì thế có thể nói rằng: người chịu khó học, hiểu biết nhiều sẽ trở thành người
quan trọng, sống sung túc; người vô học sẽ trở thành con người thấp hèn, nghèo khổ.

(Khuyến học, Fukuzawa Yukichi - Phạm Hữu Lợi dịch, NXB Thế giới, 2017, tr.24)
Thực hiện yêu cầu sau:

Câu 1. Chỉ ra những khoảng cách được tác giả nói đến trong đoạn trích.

Câu 2. Theo tác giả, nguyên nhân nào đã tạo ra những khoảng cách đó?

Câu 3. Anh/ chị hiểu như thế nào về câu nói Trời không tạo ra người đứng trên người
và cũng không tạo ra người đứng dưới người
?

Câu 4. Theo anh/chị, học vấn có phải là yếu tố duy nhất quyết định đẳng cấp sang hèn,
giàu nghèo
trong xã hội hiện nay không?

Phần II: LàM văn (7.0 điểm)

Câu 1 (2.0 điểm)

Từ đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trả lời câu hỏi
cần làm gì để nâng cao ý thức tự học cho bản thân.

Câu 2 (5.0 điểm)

Trong đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm viết:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa.”

mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...

(Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2006, tr.118)

Cảm nhận đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét về việc vận dụng chất liệu văn học dân gian
trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.


ĐỀ THI TN THPT NĂM 2020

' ĐỀ SỐ 09

(Đề bài gồm 02 trang)

I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích:

Không cần ngôn ngữ, mọi sự sống nhỏ nhoi trong tự nhiên đều dạy cho loài người chúng ta biết
tầm quan trọng của việc "sống hết mình ở thời khắc này”. Chẳng hạn tại vùng Tsunoda thuộc Bắc cực,
giữa mùa hè ngắn ngủi, các loài thực vật đua nhau nảy mầm, nở thật nhiều hoa, kết hạt, chen chúc vươn
mình trong khoảng không với mảnh đời thật ngắn ngủi. Có lẽ chúng chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với
mùa đông dài khắc nghiệt sắp tới và phó thác sinh mạng mình cho tự nhiên. Rõ ràng là chúng thực sự
sống hết mình cho hiện tại, không ảo tưởng, không phân tâm.

Ngay cả ở vùng sa mạc khô cằn Sahara, nơi mà mỗi năm chỉ có một hai cơn mưa, nhưng mỗi khi
có những giọt nước mưa hiểm hoi trút xuống thì các loài thực vật lại vội vã nảy mầm và nở hoa. Và
trong khoảng thời gian từ một đến hai tuần ngắn ngủi, chúng ra hạt, oằn mình chịu đựng trong cát,
trong cái nóng như thiêu như đốt, tiếp tục sống chờ đến trận mưa sau để nòi giống của chúng sẽ lại trỗi
dậy... Quả thật là muôn loài trong tự nhiên đều sống hết mình, sống nghiêm túc trong từng khoảnh khắc,
trong suốt khoảng thời gian sống được hạn định.

Sống hết mình cho hiện tại sẽ đưa sự sống, dù nhỏ bé, vươn đến ngày mai. Vậy thì loài người chúng
ta lại càng phải biết trân trọng cuộc sống mỗi ngày để không thua kém cỏ cây muông thú..

(Trích Cách sống: từ bình thường trở nên phi thường, Inamori Kazuô,
NXB Lao động 2020, tr. 103-104)
Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chỉnh được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2. Theo đoạn trích, các loài thực vật ở vùng Tsunoda thuộc Bắc cực sinh trưởng như thế nào giữa
mùa hè ngắn ngủi?

Câu 3. Chỉ ra những điểm tương đồng về sự sống của các loài thực vật ở vùng Tsunoda thuộc Bắc cực
và ở vùng sa mạc Sahara trong đoạn trích.

Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với nhận định của tác giả “Sống hết mình cho hiện tại sẽ đưa sự sống, dù
nhỏ bé, vươn đến ngày mai”? Vì sao?

II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày
suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải
trân trọng cuộc sống mỗi ngày.

Câu 2. (5,0 điểm) : Phân tích tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cái

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến đi dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hải trải

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm.

Có nội thà thì vùng lên đánh bại

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại


I.     ĐỌC HIỂU (3,0 ĐIỂM)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

Đôi khi ta buộc mình vào những giấc mơ nghe có vẻ to lớn nhưng thực chất thì trống rỗng.
Có thể do ta quá bận rộn đến nỗi không tin được là ta có khả năng sống với những ước muốn sâu
sắc nhất và thật nhất của ta. Sự thực là ngay tại đây, trong đời sống hằng ngày, mỗi hơi thở, mỗi
bước chân là những điều cụ thể để biến giấc mơ thành hiện thực. Nhưng thay vào đó, nếu ta đeo
đuổi những giấc mơ được làm sẵn mà người ta lừa bịp, quảng cáo, và thuyết phục mình rằng đây
là “chiếc nhẫn ” tốt nhất, đẹp nhất, thì ta sẽ hy sinh thời gian quý báu của ta, thời gian mà ta được
hiến tặng để sống và thương yêu, để đổi lấy những tham vọng trống rỗng không mang một ý nghĩa
đích thực nào...

(...) Có thể giấc mơ của ta không trở thành hiện thực và ta nghĩ rằng ta cần phải làm thêm,
suy nghĩ thêm hoặc tìm thêm phương pháp mới. Nhưng thực tế, cái ta cần không phải là thêm mà
là bớt lại, bớt những tiếng ồn trong đầu và những tiếng ồn từ bên ngoài, để ta có không gian cho
ước mơ đích thực nhất của trái tim ta được nảy mầm và phát triển.

(Trích Không gian thực hiện giấc mơ, Thích Nhất Hạnh, Tĩnh Lặng, NXB Thế giới, 2018, tr. 63 - 65)
Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2: Chỉ ra hai sai lầm của con người trên hành trình thực hiện giấc mơ (theo tác giả).
Câu 3: Anh/Chị hiểu như thế nào về những giấc mơ được làm sẵn nói đến trong văn bản?
Câu 4: Thông điệp mà anh/chị cảm thấy có ý nghĩa nhất được rút ra từ đoạn trích trên là gì?

II.     LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình
bày suy nghĩ về giải pháp để tìm ra và thực hiện giấc mơ của chính mình.

Câu 2. (5,0 điểm)

Cho đoạn thơ sau:

"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."

(Trích Việt Bắc, Tố Hữu, Ngữ Văn 12, tập 1, tr 109, )

Cảm nhận của anh/chị về tình cảm đẹp đẽ giữa bộ đội miền xuôi và người dân Việt Bắc qua
đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về tính dân tộc được thể hiện qua đoạn thơ.


 


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KỲ THI TÓT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2020-ĐỢT 2
ĐỀ THI CHÍNH THỨC                                                                                             Bài thi: NGỮ VĂN

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Chỉ những ai dám tin mình có thể làm được những việc tưởng chừng bất khả thì mới thực
sự cáng đáng được công việc! Trái lại, những người thiếu niềm tin thì chẳng bao giờ đạt được
gì cả. Niềm tin cho ta sức mạnh để thực hiện mọi điều du khó khăn nhất.

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, niềm tin có thể giúp ta làm được nhiều việc lớn hơn
cả dịch chuyển một ngọn núi. Chẳng hạn như trong thám hiểm vũ trụ, yếu tố quan trọng nhất,
cũng là yếu tố cần thiết nhất, chính là niềm tin vào khả năng nhân loại có thể làm chủ được
khoảng không bao la ấy. Nếu không có niềm tin vững chắc vào khả năng con người du hành
trong không gian, các nhà khoa học đã không thể có đủ lòng dũng cảm, niềm đam mê và sự
nhiệt tình để biến điều đó thành sự thật. Trong việc đối diện với ung thư cũng vậy, niềm tin vào
khả năng chữa khỏi căn bệnh nan y này đã tạo động lực lớn lao giúp con người tìm ra nhiều
phác đồ điều trị. Hoặc vào trước năm 1994, người ta bàn luận xôn xao chung quanh việc xây
dựng đường hầm xuyên biển Manche nối liền nước Anh với lục địa châu Âu, dài trên 50 km,
với e ngại đó là một đại dự án viển vông. Quả thực, dự án xuyên biển Manche được khởi đầu
với không ít sai lầm, nhưng cuối cùng đã thành công vào năm 1994, trở thành đường hầm dưới
biển dài nhất thế giới. Chính niềm tin kiên trì là động lực quan trọng dẫn đến sự ra đời của
đường hầm biển Manche, mà Hiệp hội Kỹ sư Dân dụng Mỹ gọi đó là một trong bảy kỳ quan thế
giới hiện đại.

(Trích Dám nghĩ lớn, David J.Schwartz, Ph.D) NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,
2019, tr.19-20)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2. Theo đoạn trích, người ta e ngại điều gì khi xây dựng đường hầm xuyên biển Manche?
Câu 3. Chỉ ra điểm tương đồng về cơ sở làm nên thành công trong thám hiểm vũ trụ và xây
dựng đường hầm xuyên biển Manche được nêu trong đoạn trích.

Câu 4. Anh Chị có đồng tình với ý kiến: “Niềm tin cho ta sức mạnh để thực hiện mọi điều dù
khó khăn nhất”? Vì sao?

I.                   LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm): Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải có niềm tin vào cuộc
sống.

Câu 2. (5,0 điểm) Phân tích khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến được
nhà thơ Tố Hữu thể hiện qua đoạn trích sau:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng.

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà...

------------------------- hết                             

ĐỀ MINH HỌA CHUẨN 2023                ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2023

' ĐỀ SÓ 12                                                              Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 01 trang)              Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Bài học về việc đón nhận thành công luôn thật dễ hiểu và dễ thực hiện. Nhưng
đối mặt với thất bại, nhất là thất bại đầu đời, lại là điều không hề dễ dàng. Với tất cả
mọi người, thất bại - nhất là thất bại trong các mối quan hệ - thường vẫn tạo ra những
tổn thương sâu sắc. Điều này càng trở nên nặng nề đối với các bạn trẻ. Nhưng bạn có
biết rằng tất cả chúng ta đều có quyền được khóc? Vậy nên nếu bạn cảm thấy cô đơn,
tuyệt vọng thì hãy cho phép mình được khóc. Hãy để những giọt nước mắt ấm nồng xoa
dịu trái tim đang thổn thức của bạn. Và hãy tin rằng ở đâu đó, có một người nào đó vẫn
đang sẵn lòng kề vai cho bạn tựa, muốn được ôm bạn vào lòng và lau khô nhưng giọt
nước mắt của bạn... Muốn nhìn thấy cầu vồng, ta phải đi qua cơn mưa... Vì thế, hãy tin
ngày mai nắng lên, và cuộc đời lại sẽ ươm hồng những ước mơ của bạn, một khi bạn
còn giữ trong lòng ánh sáng của niềm tin.

(Theo Hạt giống tâm hồn dành cho tuổi teen, tập
2, Nhiều tác giả, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2012, tr. 02)
Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2. Theo tác giả, điều gì thường tạo ra những tổn thương sâu sắc cho tất cả mọi
người?

Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ ẩn dụ được sử dụng trong câu văn: “Muốn nhìn
thấy cầu vồng, ta phải đi qua cơn mưa...”.

Câu 4. Anh/Chị có tin rằng “...cuộc đời lại sẽ ươm hồng những ước mơ của bạn, một
khi bạn còn giữ trong lòng ánh sáng của niềm tin””?

II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1
(2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
chia sẻ về cách ứng xử của bản thân khi gặp thất bại trong cuộc sống.

Câu 2 (5.0 điểm)

Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng viết:

... Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời

(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.88)

Anh/Chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét về bức tranh thiên nhiên
Tây Bắc được miêu tả trong đoạn thơ.


' ĐỀ SỐ 13                                                              Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 01 trang)              Thời gian làm bài: 120, phút, không kể thời gian, phát đề

I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Warren Buffet từng nói: “Không bao giờ có ai giống bạn”. Một ý tưởng rất thâm thúy.
Một con người khôn ngoan. Không bao giờ có ai giống như tôi. Và không bao giờ có ai giống
như bạn. Sẽ có người cố gắng bắt chước cách bạn suy tư, nói năng, hành động. Nhưng dù cố
gắng hết sức họ cũng chỉ đứng hàng thứ hai mà thôi. Vì bạn là duy nhật. Một bản thể duy nhất
tồn tại hôm nay. Giữa hàng tỉ người khác. Hãy dừng lại và suy nghĩ về điều này. Bạn chợt nhận
ra rằng mình đặc biệt. Và không thể có ai tranh giành được.

Thế thì hôm nay, bạn làm gì khi bước vào thế giới cần những con người thể hiện vượt
trội trong cuộc sống từ trước đến giờ? Bạn đã bộc lộ hết mọi khả năng tiềm ẩn chưa? Bạn có
là chính mình? Hãy tự hỏi. Bởi vì không còn lúc nào thể hiện chính mình tốt hơn lúc này. Và
nếu không phải bây giờ thi khi nào? Tôi nhớ đến lời của triết gia Herodotus: “Thà chấp nhận
rủi ro phải gánh chịu một nửa những chuyện xấu mà ta từng dự đoán trước, còn hơn giữ mãi
sự vô danh hèn nhát vì sợ những điều có thể xảy ra”. Một lời nói tuyệt đẹp.

(Trích “Hãy là chính mình” - Robin Sharma)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2. Anh/chị hiểu câu nói: “Không bao giờ có ai giống bạn” thế nào?

Câu 3. Nêu hiệu quả nghệ thuật của các câu hỏi tu từ trong câu sau: Thế thì hôm nay, bạn làm
gì khi bước vào thế giới cần những con người thể hiện vượt trội trong cuộc sống từ trước đến
giờ?

Câu 4. Câu nói: “Thà chấp nhận rủi ro phải gánh chịu một nửa những chuyện xấu mà ta từng
dự đoán trước, còn hơn giữ mãi sự vô danh hèn nhát vì sợ những điều có thể xảy ra”
gợi cho
anh chị suy nghĩ gì?

II.       LÀM Văn (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ
về việc
ý thức là chính mình của giới trẻ hiện nay.

Câu 2. (5.0 điểm)

Cảm nhận về vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến trong hai đoạn thơ sau:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

và:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

(Trích Tây Tiến, Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập
1, NXB Giáo dục, 2010, tr.88-89
)

Từ đó, bình luận về những sáng tạo tài hoa của nhà thơ Quang Dũng trong việc khắc
họa vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến.

               hết              

ĐỀ SỐ 14                                                            Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 01 trang)              Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I.      ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc đoạn trích:

...Hạt tìm đất, bén rễ, qua bao gian nan khó nhọc. Nhờ gió thổi. Nhờ nước cuốn trôi. Nhờ thú
rừng chim muông chuyển hạt. Nhờ gió thổi hạt phải nhẹ và có cánh, như hạt thông vàng. Nhờ nước
cuốn, quả phải rỗng như quả dừa. Nhờ chim muông, quả phải mỏng vỏ, có màu sắc mời gọi. Tôi nghĩ
đến các em học trò Việt du học xứ người. Cũng tìm đủ mọi cách đáp ứng. Cũng lênh đênh. Cũng côi
cút. Cũng trải mình qua những mùa nắng hạ mưa đông.

Tiếng Việt mình sâu sắc. Nhân là con người. Nhân cũng là hạt. Nhân cũng là lòng yêu thương
người khác. Nhìn những anh chị bại liệt cũng trở thành hiệp sĩ công nghệ thông tin giúp đời. Biết những
người khiếm thị cũng làm được nghề sửa chữa điện tử, để có ích và giúp người. Lòng tự hứa không thể
là hạt lép. Chẳng có lý do gì để không là hạt giống tốt cho mùa sau.

Từ đó ta có bài học về nết tốt của hạt: Kiên trì, nhẫn nại, và lòng dũng cảm. Cũng như ta học
về hạnh sống hết mình của hạt thóc: Sớm cho mùa vàng, dám chịu xay giã giần sàng. Gạo nuôi người,
cám bã nuôi heo, rơm tặng người bạn trâu. Và đến cọng rơm thừa cũng bện thành con cúi giữ lửa suốt
đêm trường. Và sưởi ấm cánh đồng mùa đông gió bấc.

Mỗi khi ta cằn cỗi, hãy nhớ ta là hạt. Ta lại nghĩ về khoảng xanh ngoài ban công, cũng như bạn
thấy những mầm cây đội lên từ khối bê tông đường nhựa. Để không cho những khiếm khuyết tự bào mòn
hay những nỗi buồn tự hủy.

(Đoàn Công Lê Huy, Gửi em mây trắng, NXB Kim Đồng, 2016)
Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2. Theo tác giả “hạt tìm đất, bén rễ” trải qua những gian nan khó nhọc nào?

Câu 3. Phân tích hiệu quả của một biện pháp tu từ lặp cú pháp được sử dụng trong các câu văn sau:
“Cũng tìm đủ mọi cách đáp ứng. Cũng lênh đênh. Cũng côi cút. Cũng trải mình qua những mùa nắng
hạ mưa đông.”

Câu 4. Anh/Chị hãy nhận xét về quan niệm sống tác giả gửi gắm:“Lòng tự hứa không thể là hạt lép.
Chẳng có lí do gì để không là hạt giống tốt cho mùa sau.”

II.      LAM VĂN (7.0 điểm)

Câu 1 (2.0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của việc mạnh dạn chấp nhận những thử thách của cuộc sống.

Câu 2 (5.0 điểm)

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương

Ớ ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

(Trích Sóng - Xuân Quỳnh, Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2018, tr. 155 - 156)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong
tình yêu.


ĐỀ THI TN NĂM 2021                 ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2023

ĐỀ SỐ 14                                                            Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 01 trang)              Thời gian làm bài: 120, phút, không kể thời gian, phát đề

I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Từ những kẽ hở trên mặt đất, nước trào lên, mát lạnh và trong lành. Từ một dòng nước nhỏ, nước
hoa vào với nước tươi mát vời từ trên trời và nước thấm vào đất để tạo nên một dòng suối nhỏ cứ chảy
mải xuống cho tới khi, một dòng sông ra đời.

Sông hình thành lực đẩy và cuốn trôi dân các lớp đất và nên khi dòng chảy từ từ mở rộng và sâu
thêm, giống như một đứa trẻ với đôi mắt sáng ngời vươn mình lớn dậy. Dòng sông trở nên đủ mạnh mẽ
để xuyên qua núi hay thậm chí tạo thành một hẻm núi.

Khi nước gặp con người, nó còn được chứng kiến nhiều chuyện nhiều hơn. Một ông lão băng qua
cây cầu, một cô gái trẻ trên chiếc xe đạp, một đôi tình nhân ngôi ngắm sông trôi. Cứ mãi chầm chậm
và cứ mãi xanh, dòng sông chứng kiến lũ trẻ chơi đùa trong công viên hai bên bờ và người cha cùng
cậu con nhỏ đang chơi bắt bóng

Dòng sông, giờ đã ở tuổi xế chiều, lại càng trở nên dịu dàng khi nó tiến dân ra phía biên. Rồi cũng
đến lúc nó ra tới biển và dòng chảy của nước cuối cùng cũng đi tới hồi kết.

Tất cả những trầm tích được nước mang theo lúc đó lắng lại ở cửa sông. Kết quả là một vùng châu
thổ được hình thành. Sông Hằng, sông Mississippi và sông Amazon đều đã hình thành những châu thổ
tựa như hình chiếc lược tại nơi chúng gặp gỡ biển cả. Đều có khởi nguồn như một bờ cát nhỏ cuối cùng
đã phát triển thành một vùng đất rộng lớn, tạo nên một đường bờ biển mới và rộng rãi. Những vùng
châu thổ màu mỡ này hình thành nên những vùng nông nghiệp vĩ đại nhất trên thế giới - món quà cuối
cùng mà nước dành tặng cho loài người, trước khi nó hiên mình cho đại dương vào lúc cuối đời.

(Trích Bí mật của nước, Masaru Emoto, NXB Lao động, 2019, tr. 90-93)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Theo đoạn trích, sự ra đời của một dòng sông diễn ra như thế nào?

Câu 2. Trong đoạn trích, món quà cuối cùng nước dành tặng cho loài người trước khi hòa vào biển cả
là gì?

Câu 3. Những câu văn sau giúp anh/chị hiểu gì về dòng chảy của nước và cuộc sống của con người?

Một ông lão băng qua cây cầu, một cô gái trẻ trên chiếc xe đạp, một đôi tình nhân ngồi ngắm sông
trôi, Cứ mãi chầm chậm và cứ mãi xanh, dòng sông chứng kiến lũ trẻ chơi đùa trong công viên hai bên
bờ và người cha cùng cậu con nhỏ đang chơi bắt bóng.

Câu 4. Qua hành trình từ sông ra biển của nước trong đoạn trích, anh/chị rút ra những bài học gì về lẽ
sống?

II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải biết sống cống hiến.

Câu 2 (5,0 điểm)

Trong bài thơ Sóng, nhà thơ Xuân Quỳnh viết:

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?


Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 15)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét vẻ đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh.


ĐỀ SỐ 16                                                            Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 01 trang)              Thời gian làm bài: 120, phút, không kể thời gian, phát đề

I.                   Đọc hiểu (3,0 điểm).

Đọc đoạn trích sau:

Tường nhà tôi thường treo nhiều bức tranh

Đẹp nhất vẫn là bức tranh màu xanh

Cửa sổ

Khói trắng dăng dăng ngang tầm thành phố

Dãy núi lam sơn, cánh đồng biếc mạ...

Và rung rinh vài nhánh cây, chùm quả

Cùng với những gì gọi là cuộc đời

Tất cả dẵm trên nền vĩnh cửu: bầu trời

Bức tranh màu xanh tôi thường say ngắm nhất

Mỗi tia sáng làm đổi thay màu sắc

Mỗi hạt mưa, làn sương, cánh chim

Đã khảm vào tôi từ thuở biết nhìn

Và phác trong tôi bao đường nét bình yên

Rồi một sáng tôi nghe lời bức tranh đằm thắm:

“- Anh không thể chỉ đắm say đứng ngắm

Anh phải là một nét vẽ dẫu đơn sơ”.

(Nguyễn Duy, trích từ tập thơ “Cát trắng'”. NXB Quân đội Nhân dân, 1973)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1: Xác định thể thơ được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2: Chỉ ra ít nhất 02 từ ngữ nói lên cảm giác bình yên được thể hiện trong đoạn thơ:

Tường nhà tôi thường treo nhiều bức tranh
Đẹp nhất vẫn là bức tranh màu xanh

Cửa sổ

Khói trắng dăng dăng ngang tầm thành phố
Dãy núi lam sơn, cánh đồng biếc mạ...

Câu 3. Nêu tác dụng của phép tu từ lặp được sử dụng trong những câu thơ:

Mỗi tia sáng làm đổi thay màu sắc
Mỗi hạt mưa, làn sương, cánh chim
Đã khảm vào tôi từ thuở biết nhìn
Và phác trong tôi bao đường nét bình yên

Câu 4: Câu thơ sau gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?

“Anh không thể chỉ đắm say đứng ngắm
Anh phải là một nét vẽ dẫu đơn sơ”?.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày
suy nghĩ về sự cần thiết của việc đóng góp giá trị bản thân cho cuộc đời.

Câu 2. (5,0 điểm).

... “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ
màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã
chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật
mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần,
sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc,
vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về hướng đông
bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang
của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thắm,
và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng


Cánh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với
những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng
phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam của thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím ” như
người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chú
được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ
tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn
Niên” Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt
nước phang lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm
làng trung du bát ngát tiếng gà...”

(Trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo
dục, tr,198-199)

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét chất thơ được
thể hiện trong đoạn trích.

             hết             


ĐỀ SỐ 17                                                           Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 01 trang)              Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I.      ĐỌC HIỂU (3 điểm)

Đọc đoạn trích:

Ruộng đồng màu xanh ngút ngàn

Một bầy trẻ thơ nói cười

Tôi yêu người Việt Nam này

Cả trong câu hát ca dao

Tôi yêu người Việt Nam này

Cười vui để quên đớn đau

Tôi yêu người Việt Nam này

Mẹ ơi con mãi không quên

Ngàn nụ hôn trong tim

Dành tặng quê hương Việt Nam

(Trích lời ca khúc Tôi yêu, Phương
Uyên,http://www. lyrics. vn/lyrics/10941-toi
yeu.html)

Trả lời các câu hỏi sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2. Chỉ ra 02 hình ảnh về quê hương mà tác giả yêu mến được nhắc đến trong đoạn thơ sau
Tôi yêu Nha Trang, Vũng Tàu

Bao mái chùa

Yêu dòng nước trong xanh
Tôi yêu phiêu du khắp trời
Bên những người thân của tôi

Câu 3. Nêu hiệu quả của phép điệp trong đoạn thơ

Tôi yêu bao con phố quen
Yêu cánh đồng
Yêu hạt lúa thơm

Yêu thương mưa rơi trước hiên
Yêu nắng dài trên tà áo em bay
Hằng ngày cà phê trước thềm
Bạn bè hàn huyên suốt ngày

Câu 4. Đoạn thơ sau gợi cho anh/chị suy nghĩ gì ?

“Tôi yêu người Việt Nam này

Mẹ ơi con mãi không quên
Ngàn nụ hôn trong tim
Dành tặng quê hương Việt Nam ”

PHẦN II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về
những việc cần làm để thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của thế hệ trẻ ngày nay.

Câu 2. (5,0 điểm)

Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hắn lên giữa những biền bãi xanh biếc
của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thắng thực yên tâm theo hướng tây nam- đông bắc, phía đó, nơi
cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những
vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến
Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hắn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình
22


yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay
giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc
hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp phố
phường với những cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những
nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không
một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông
đã làm giảm hắn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm,
thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va
cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến
băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của
chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước
cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế,
và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm
một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng
sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang
ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì
những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi; chợt thấy quý
điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có
thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng
bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước
như những vấn vương của một nỗi lòng.

(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập một,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2008, tr.199 - 200)

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó,
nhận xét về nét đặc sắc trong nghệ thuật viết bút kí của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO              KỲ THI TN THPT QUỐC GIA NĂM 2021

ĐỀ THI THAM KHẢO                                                           Môn thi: NGỮ VĂN

(Đề bài gồm 01 trang)              Thời gian làm bài: 120, phút, không kể thời gian, phát đề

I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Miền Trung

Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm.
Miền Trung

Bao giờ em về thăm

Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt

Lúa con gái mà gầy còm túa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như có
Không ai gieo mọc trắng mặt người.

Miền Trung

Eo đất này thắt đáy lưng ong

Cho tình người đọng mật

Em gắng về

Đừng để mẹ già mong...

(Trích Miền Trung, Hoàng Trần Cương, Thơ hay Việt Nam thế kỉ XX, NXB Văn hóa Thông tin, 2006,
tr. 81-82)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Chỉ ra hai hình ảnh trong đoạn trích diễn tả sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Trung.

Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về mảnh đất và con người miền Trung?
Miền Trung

Eo đất này thắt đáy lưng ong

Cho tình người đọng mật

Câu 4. Anh/Chị hãy nhận xét về tình cảm của tác giả đối với miền Trung được thể hiện trong đoạn trích.

II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ
của anh/chị về sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn thử thách.

Câu 2. (5,0 điểm)

Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyên dùng một cách liên
tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức
để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn
Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột
ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây,
sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc
nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột
ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa,
với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản
quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiểu tím” như người Huế thường
miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những
rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn
bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương,
như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân
nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà...

(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2o2o, tr.198-199).

Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ
Ngọc Tường.

SỞ GD-ĐT QUẢNG NGÃI       ĐỀ MINH HỌA KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT 2023

TRƯỜNG THCS- THPT PHẠM KIỆT              '                           Bài thi: Ngữ văn

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Câu 2. Chỉ ra những động từ diễn tả hành động của ta trong đoạn thơ:
Ôi tuổi thanh xuân

Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim

Ta sung sướng được làm người con Đất Nước
Ta băng tới trước quân thù như triều như thác
Ta làm bão, làm dông

Ta lay trời chuyển đất

Ta trút hờn căm để làm nên

những vinh quang bất diệt
Giáng xuống quân thù như sấm sét không nguôi
Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành

bão lửa ngút trời

Câu 3. Nêu nội dung của hai dòng thơ:

Ôi! Tổ quốc mà ta yêu quý nhất

Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!

Câu 4. Nhận xét về hình ảnh Đất Nước được thể hiện trong đoạn trích.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình
bày suy nghĩ của anh/ chị về ý nghĩa của sự cho đi trong cuộc sống.

Câu 2 (5,0 điểm)

Trong Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu viết:

Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng
Anh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

(Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.112-113)
Anh/ chị hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó, nhận xét về tinh thần đoàn kết được thể
hiện trong đoạn trích.

............................. HẾT                                

Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm


Tôi chọn bài ca của mùa hạ nắng
Tôi chọn bài ca của người gieo hạt
Hôm nay là mầm, mai sẽ thành cây
Khổ đau dẫu nhiều, tôi chọn niềm vui
Là suối mát lòng tôi gửi bạn
Một cuộc đời - một bài ca duy nhất

Chỉ song song một cuộc đời giữa vô cùng năm tháng Tôi chăng muôn điệu hát buôn là' kỷ niệm về tôi
Chỉ một lần gặp bạn, bạn yêu thương
Chăng muôn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buôn

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1: Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2: Chỉ ra những chi tiết diễn tả nỗi buồn của nhà thơ trong đoạn thơ:

Bao bài ca xáo trộn trong tôi

Có tiếng khóc của con chim gãy cánh
Tiếng đau rên của ngôi nhà đố sập
Tiếng con thuyền không về được bờ quen
Tiếng mưa rơi trên ngọn cỏ yếu mềm...

Câu 3: Anh, chị hiểu gì về nhan đề bài thơ: Tôi chăng muôn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buôn?
Câu 4: Nội dung câu thơ: Một cuộc đời - một bài ca duy nhất có ý nghĩa như thế nào với anh/chị?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2 điểm)

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của anh/chị về sự cần thiết của lối sống chủ động, tích cực với mỗi người.

Câu 2 (5 điểm):

Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buôn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến
chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thối lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.

Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngôi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà
mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thối bếp, A Phủ lại mở
mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết
A Phủ còn sông. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thối lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử
chợt về, thấy Mị ngôi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuông cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như
đêm trước.

Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thối lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị
lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuông hai hóm má
đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải
trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuông miệng, xuông cố, không biết lau đi được. Trời
ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà
ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết
đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rôi thì chỉ còn đợi
ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.

Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tình cảm
của nhà văn Tô Hoài dành cho người lao động vùng cao Tây Bắc.

-—-----—-Hết—                

ĐỀ THI THỬ TÓT NGHIỆP THPT NĂM 2023

Bài thi: Ngữ văn

Thời gian làm bài: 120 phút (không kể thời gian phát đề)

I.     ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Lòng tự trọng chiếm một trong những vị trí thiêng liêng nhất trong khu vườn nhân cách của mỗi cá
nhân, và là người gác cổng cho tòa lâu đài lương tâm của chúng ta. Nó giúp ta chọn lọc cách thức giao
tiếp để sống một cuộc đời ý nghĩa.

Lòng tự trọng nằm ngay trong bản thân mỗi người. Nó là người thầy, người bạn, người hộ vệ thân thiết
và chân thành nhất của chúng ta. Lòng tự trọng giúp ta biết cách hành xử đúng mực cũng như luôn
dũng cảm trong việc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.

Mọi sự khôn ngoan đều bắt đầu từ lòng tự trọng. Với lòng tự trọng, bạn sẽ trở nên năng động và can
đảm, sẵn sàng tiến về phía trước để mở lối cho những người đi sau. Lòng tự trọng bắt nguồn từ việc
bạn yêu thương và tôn trọng chính bản thân mình. Quả thật, nếu không tôn trọng chính mình, làm sao
bạn có thể học được cách yêu thương và tôn trọng người khác?

Để được người khác tôn trọng, bạn phải luôn cẩn thận trong cách ứng đối cũng như hành động mỗi
ngày. Hãy để lòng tự trọng nâng cánh cho những ước mơ của bạn. Hãy nỗ lực hết mình để đạt được
những điều mà bạn khao khát. Nhưng hãy nhớ rằng: Thiếu lòng tự trọng, mọi chiến thắng đều trở nên
vô nghĩa.

(Trích Không gì là không thể, George Matthew Adams, Thu Hằng dịch, NXB Tổng hợp TP. Hồ
Chí Minh, 2019, trang 27)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2. Theo tác giả, lòng tự trọng giúp con người có được những điều gì?

Câu 3. Anh/Chị hiểu như thế nào về câu: Lòng tự trọng là “người gác cổng cho tòa lâu đài lương tâm
của chúng ta”?

Câu 4. Lời khuyên “Hãy nhớ rằng: Thiếu lòng tự trọng, mọi chiến thắng đều trở nên vô nghĩa" trong
đoạn trích có ý nghĩa gì với anh, chị?

II.     LÀM VăN (7,0 điểm)

Câu 1(2,0 điểm)

Anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về vấn đề: Làm thế
nào để được sống là chính mình.

Câu 2 (5,0 điểm)

Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì
Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng
Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy,
vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã
ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.

Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt
trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám
đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói
đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi,
nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày
trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau,
chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.

Đám than đã vạc hắn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng
như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chắng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã
cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh
này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...

Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ
đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thởphè từng hơi,
không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị
chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay..." rồi Mị nghẹn lại.

(Trích “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr.13,14)

Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đoạn trích . Từ đó làm nổi bật tấm lòng của nhà
văn Tô Hoài đối với người dân lao động nghèo Tây Bắc.

ĐỀ THI THỬ TÓT NGHIỆP THPT NĂM 2023

Môn thi: Ngữ Văn

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:

Ai đang nhớ vùng quê mình ngoài đó

Những ngọn đồi đá ong nuôi giấc mơ bạch đàn

Mẹ quét lá thấy dấu con trên đất
ngày con đi chân cứng đá mềm

Con đã trải đá mền rồi mẹ ạ

Và đá cũng cứng hơn con tưởng rất nhiều
Nhưng cây bạch đàn trên đồi kia đứng được
Nó không tìm một chỗ sống khác hơn

Cuối một đêm con qua khoảng rừng cháy trụi
Cây như ngàn cánh tay khô khẳng níu bầu trời
Bên hố bom B.52 khét lẹt

Sao Mai xanh như giếng nước tình cờ

(Trích “Những người đi tới

6UulZPmV9YCDQ9t7X2vqag)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1 (0.75 điểm): Bức tranh về “vùng quê mình ngoài đó” trong nỗi nhớ của người con - người chiến
sĩ - được khắc họa với những hình ảnh nào?

Câu 2 (0.75 điểm): Chỉ ra 01 phép tu từ được sử dụng trong khổ thơ thứ ba.

Câu 3 (1.0 điểm): Anh/chị hiểu như thế nào về hai câu thơ “Nhưng cây bạch đàn trên đồi kia đứng được/
Nó không tìm một chỗ sống khác tốt hơn”?

Câu 4 (0.5 điểm): Hình ảnh người mẹ trong đoạn thơ gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ về những tác động tích cực khi mỗi con người biết “nuôi dưỡng ước mơ”.

Câu 2. (5,0 điểm)

Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng
đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng
nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm
thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều
thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng
rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lí: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.

Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai nhớ. Nhưng người
nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí. Ngày xưa bố Mị
lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm
đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ.
Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.

Cho tới năm ấy Mị đã lớn, Mị là con gái đầu lòng. Thống lí đến bảo bố Mị:

-       Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xoá hết nợ tho.

Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc ngô, nhưng cũng lại thương
con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng:

-       Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con
cho nhà giàu.

(Tô Hoài - Vợ chồng A Phủ - SGK Ngữ văn 12, tập Hai, tr 4,5)

Cảm nhận về số phận của nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nghệ thuật trần thuật
của nhà văn Tô Hoài thể hiện qua đoạn trích.

             hết             

ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2023

Môn thi: Ngữ Văn

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Câu 2: Những dòng thơ nào gợi lên sự hi sinh anh dũng của nhân vật “em” trong bài thơ trên?
Câu 3: Anh (chị) hiểu gì về 2 dòng thơ sau:

Gương mặt em bạn bè tôi không biết

Nên mỗi người có gương mặt em riêng

Câu 4: Anh (chị) hãy nhận xét về tình cảm của tác giả với người nữ thanh niên xung phong
được thể hiện trong bài thơ?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm):

Từ nội dung bài thơ, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về
ý nghĩa của thái độ sống biết trân trọng quá khứ đối với mỗi con người.

Câu 2 (5,0 điểm):

“... Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người
vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào
hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh
mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn
sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy
đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác
mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng
chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại
rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn
đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng.
Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người,
hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng
muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà...”.

(Trích “Vợ nhặt” - Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai. NXB Giáo dục, 2008, tr.30)

Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó bình luận
ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân thể hiện qua đoạn trích.

ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2023

Môn thi: Ngữ Văn

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I.      ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Trong mỗi người chúng ta có chứa đựng hai phần đối lập - bóng tối và ánh sáng. Để hạnh phúc
luôn mỉm cười, ta cần phát huy mặt tốt và không phủ nhận mặt xấu trong con người mình. Khi
không dám đối diện với nỗi sợ hãi và cơn ác mộng dày vò tâm trí, ta sẽ gián tiếp khước từ
những cảm xúc tốt đẹp đang hiện hữu trong trái tim mình. Và cứ thế bóng tối dần xâm chiếm
và bao phủ lên những điều tuyệt vời ta đang có. Ngược lại, nếu ta can đảm đương đầu và chiếu
rọi ánh sáng vào những vùng tối tăm, bóng tối sẽ lùi lại và tan biến.

Thật vậy, sự trưởng thành của mỗi người phụ thuộc vào sự dũng cảm đối mặt với thử thách -
những thử thách không chỉ ở thế giới bên ngoài mà còn ở thế giới nội tâm. Bóng tối sẽ không
thể tồn tại nếu ta phơi bày nó trước ánh sáng của sự thiện tâm, lòng nhân hậu và sự khoan
dung, bởi chẳng có bóng tối nào trên thế gian này có sức mạnh và quyền năng to lớn bằng tình
yêu.

(Tian- Dayton, Ph, D, Quên hôm qua sống cho ngày mai, NXB Tổng hợp TPHCM, Tr 129)
Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2. Theo tác giả “Sự trưởng thành của mỗi người” phụ thuộc vào điều gì? “Những thử
thách”
thường đến từ đâu?

Câu 3. Theo anh/chị, vì sao: “Ta cần không phủ nhận mặt xấu trong con người mình”?

Câu 4. Lời khuyên “Nếu ta can đảm đương đầu và chiếu rọi ánh sáng vào những vùng tối tăm,
bóng tối sẽ lùi lại và tan biến”
trong đoạn trích có ý nghĩa gì với anh/chị?

II.      LÀM VĂN (7.0 điểm)

Câu 1 (2.0 điểm)

Từ nội dung của phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) về sự cần
thiết của việc lan toả tình yêu thương trong cuộc sống.

Câu 2 (5.0 điểm)

Trình bày cảm nhận của anh/chị về diễn biến tâm trạng của nhân vật Bà cụ Tứ trong đoạn trích sau để làm
nổi bật nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc của ngòi bút Kim Lân:

“...Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa
ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn
nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống
hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.

Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà
lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình
mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái
tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết
thế nào mà lo cho hết được?

Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới":

-       Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...

Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vân
từ tốn tiếp lời:

-       Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết
thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.

Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong
cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một
hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của
mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?... ”

(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr. 28-29)

                            Hết                                   

ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2023
Môn thi: Ngữ Văn

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

(1)   Sự thiếu trung thực sẽ ảnh hưởng đến bản thân ta rất nhiều: Sự thiếu trung thực trong kinh doanh,
những mối quan hệ của doanh nhân cũng trở nên hời hợt, dân đến thiếu vắng những tình cảm chân thành, những
điều giá trị hơn trong cuộc sống; Sự thiếu trung thực trong học tập làm người học sinh trở nên coi thường kiến
thức, coi thường giá trị của sự khổ công trong học tập, rèn giũa của mình, mà chỉ còn chú ý đến những con điểm,
đến những mánh khóe để đạt được điểm cao; Sự thiếu sự trung thực trong đời sống gia đình sẽ dân đến sự mất
niềm tin lân nhau của mọi thành viên, là một nguy cơ làm gia đình tan rã... Thói quen thiếu trung thực dần dần
khiến con người cũng phải tự lừa dối chính mình, huyên hoặc mình, và không còn nhìn thấy những nguy cơ, thách
thức sắp đến nên không có phản ứng kịp lúc và nhấn chìm mình trong sai lầm triền miên. (...) Chính vì vậy, môi
khi định làm gì đó thiếu trung thực, trái với lương tâm của mình, bạn hãy nhớ kỹ: những gì mà việc đó đem lại
cho bạn không thể bù đắp được “cái giá ” mà bạn và những người xung quanh phải trả.

(2)   Môi người đều có một “la bàn ” cho chính mình, đó không phải là tài năng, không phải là ước mơ, nó
không chỉ cho bạn cái đích cần đến, nhưng nó giữ cho bạn đi đúng hướng và không bị lạc đường, không bị sa ngã.
Chiếc la bàn ấy là thứ tối quan trọng để bạn có thể “lãnh đạo chính mình ”, nó được cất trong tim môi người, luôn
săn sàng cho bạn, chỉ tùy thuộc vào bạn có đủ dũng khí sử dụng nó hay không thôi. Chiếc la bàn ấy có tên là
Trung thực.

(Nhóm tác giả Nguyễn Thành Thân, Nguyễn Hoàng Sơn, Lương Dũng Nhân - Thắp ngọn đuốc xanh - NXB Trẻ,
2018, Tr 96,97)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2: Theo đoạn trích, mỗi khi định làm gì đó thiếu trung thực, cần nhớ kỹ điều gì?
Câu 3: Xác định và nêu hiệu quả của phép tu từ nổi bật được sử dụng trong đoạn (1).
Câu 4: Thông điệp nào trong đoạn trích có ý nghĩa nhất đối với anh/chị? Vì sao?

PHẦN II: LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ
về ý nghĩa của việc sống trung thực.

Câu 2 (5,0 điểm)

“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người
vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vân còn ngỡ ngàng như không phải.

Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt
còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bông vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay
đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo
rách như tổ đỉa vân vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vân để khô cong
ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giây những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi
từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía
cảm động. Bông nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn
chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng
cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
nhà”.

(Trích Vợ nhặt - Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai. NXB Giáo dục, 2008, tr.30)

Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng trong đoạn trích trên; từ đó, nhận xét cách nhìn về người nông dân của
nhà văn Kim Lân được thể hiện trong đoạn trích.

                        Hết                        


Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)

Đọc văn bản sau

...Có gì đâu, có gì đâu

Mỡ màu ít chắt dồn lâu hóa nghèo

Tre bao nhiêu rê bấy nhiêu cần cù

Vươn mình trong gió tre đu

Cây kham khô vân hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm
Bão bùng thân bọc lấy thân

Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người
Chăng may thân gãy cành rơi
Vân nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường

Lưng trần phơi nắng phơi sương

Có manh áo cộc tre nhường cho con.. ”

(Tre Việt Nam, Nguyễn Duy)

Câu 1. Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt của văn bản?

Câu 2. Đoạn thơ trên đã nói đến loài cây gì?

Câu 3. Chỉ ra và cho biết tác dụng của biện pháp tu từ trong hai cau thơ sau

Bão bùng thân bọc lấy thân

Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm

Câu 4. Qua hình ảnh cây tre, anh chị thấy những phẩm chất cao quý nào của con người Việt Nam?
Phần I. Làm văn (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung bài thơ ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ
ý nghĩa của những khát khao yêu thương trong cuộc sống con người.

Câu 2. (5,0 điểm)

Từ chớ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một
chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người
đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá
nước chớ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại
buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hô, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy
ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chăng nói chăng rằng lão trút cơn giận như lửa
cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm
răng nghiến ken két, cứ mới nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho
ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ! ”.

Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhân nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không
tìm cách trốn chạy.

Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà
nhìn. Thế rồi chăng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.

Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác - thằng bé trên rừng xuống
vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thăng làm nó khi chạy qua
không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vân không hề ngoảnh
lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xô vào cái lão đàn ông.

Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe
đến thế!

Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng
được chiếc thắt lưng, liền dướn thăng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng
có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng
nhưng chăng được nữa, liền dang thăng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.

(Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73)

Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận
thức trong tác phẩm
Chiếc thuyên ngoài xa của Nguyễn Minh Châu


I.     Đọc hiểu (3 điểm)

Đọc đoạn trích:

Sự trưởng thành của con người luôn song hành cùng những vấp ngã và sai lầm. Vì thế, hãy chấp nhận
điều đó như một lẽ tự nhiên. Khi trẻ học nói, học đi hay bất cứ điều gì, chúng đều phải nếm trải những va vấp.
Chúng ta cũng vậy, có thể đằng sau những tư tưởng vừa lĩnh hội, hoặc sau sự chín chắn rèn giũa được là một thất
bại, hay một bước lùi nào đó. Tuy nhiên, đừng đánh đồng những sai lầm ấy với việc ta không thể trưởng thành.
Hãy hiểu rằng, như một lẽ tự nhiên, sau một bước tiến xa luôn tồn tại một bước lùi gần và hãy tin tưởng rằng mọi
trải nghiệm đều đem lại cho ta những bài học quý giá nếu ta biết trân trọng nó.

Chính vì vậy, đừng giữ thái độ cầu toàn trong mọi sự. Dĩ nhiên, để đạt được điều mình mong muốn, ta
phải không ngừng nô lực. Nhưng đừng yêu cầu cuộc đời phải viên mãn thì ta mới hài lòng và cũng đừng đòi hỏi
mọi mối quan hệ phải hoàn hảo thì ta mới nâng niu trân trọng. Hoàn hảo là một điều không tưởng. Trên đời,
chẳng có gì là hoàn thiện, hoàn mĩ cả. [...]

Khi kiếm tìm sự hoàn hảo, người ta dê trở nên hà khắc, hay phán xét bản thân và mọi người. Bởi vậy,
trên con đường trưởng thành của mình, môi người cần phải học cách chấp nhận người khác và chấp nhận bản
thân như vốn có.

(Theo Quên hôm qua sống cho ngày mai - Tian Dayton, Ph. D, biên dịch: Thu Trang - Minh Tươi, NXB Tổng hợp
TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr.68 - 69)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1 (NB). Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản.

Câu 2 (NB). Theo tác giả, vì sao đừng giữ thái độ cầu toàn trong mọi sự?

Câu 3 (TH). Anh/Chị hiểu như thế nào về ý kiến: như một lẽ tự nhiên, sau một bước tiến xa luôn tồn tại một
bước lùi gần?

Câu 4 (VD). Anh/Chị có đồng tình với quan niệm: trên con đường trưởng thành của mình, môi người cần
phải học cách chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân như vốn có?
Vì sao?

II.     LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ về ý nghĩa
sự trải nghiệm trong cuộc sống.

Câu 2. (5,0 điểm)

Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, môi ngày hai lần, hoặc buổi sáng
sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn
đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cócây nào không bị thương. Có những cây bị
chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ớ chô vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào
ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.

Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm
cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt
trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng
luồng lớn thắng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn
ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ớ những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết
thương không lành được, cứ loét mai ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao
hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng,
những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rấtnhanh, thay thế
những cây đã ngã... Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...

Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối
tiếp tới chân trời.

( Trích Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12,Tập hai, tr 38,NXB Giáo dục Việt Nam, 2008)

Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp hình tượng cây xà nu trong đoạn trích trên trên. Từ đó, nhận xét bút
pháp miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Trung Thành.


ĐỀ THI THỬ CHUẨN CẤU TRÚC
MINH HỌA

(Đề thi có 02 trang)

I.      Đọc hiểu (3 điểm)

Đọc văn bản sau:

Từ trong tay mẹ con đi

Ba lô, khâu súng... có gì nữa đâu
Đạn bom táp bạc mái đầu
Bao năm mẹ ngóng... giàn trầu héo cong
Bảy chìm, ba nổi long đong
Dòng đời gió bụi đục trong khôn lường
Tan trong băng giá, tuyết sương...

Đơn côi muôn vạn nẻo đường - Khát yêu!

Giữa thị thành, vân cô liêu
Bát cơm, manh áo sớm chiều bon chen
Rớt mình trong cảnh sang hèn
Rủi may, vinh nhục, đỏ đen khóc cười
Xót xa quăng quật nửa đời
về ngôi nhà mẹ tìm nơi yên bình!

(Nguồn https://baohaiduong.vn, Bình yên bên mẹ, Vũ Thành Chung)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1 (NB). Văn bản trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2 (TH). Nêu tác dụng việc vận dụng sáng tạo thành ngữ trong dòng thơ Bảy chìm, ba nổi long đong.

Câu 3 (TH). Anh/chị hiểu các dòng thơ sau như thế nào?

Giữa thị thành, vân cô liêu

Bát cơm, manh áo sớm chiều bon chen

Rớt mình trong cảnh sang hèn
Rủi may, vinh nhục, đỏ đen khóc cười

Câu 4 (VD). Hai dòng thơ cuối của bài thơ gợi anh/chị suy nghĩ gì?

II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung bài thơ ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ
ý nghĩa của những khát khao yêu thương trong cuộc sống con người.

Câu 2. (5,0 điểm)

Từ chớ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một
chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người
đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá
nước chớ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại
buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy
ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa
cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm
răng nghiến ken két, cứ mới nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho
ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ! ”.

Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhân nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không
tìm cách trốn chạy.

Tất cả mọi việc xây đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà
nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.

Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác - thằng bé trên rừng xuống
vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua
không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vân không hề ngoảnh
lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.

Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe
đến thế!

Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng
được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng
có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng
nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.

(Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73)

Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận
thức trong tác phẩm.

            hết          

Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm


I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Phải, giá thử lần thứ nhất tôi đến, hoặc lần thứ hai trở lại, và các lần sau nữa, mà người
thợ ấy nổi giận đuổi tôi ra khỏi ngôi quán, thì chắc chắn tôi không đủ thì giờ nhìn kỹ
cái mặt mình đến như thế. Gần nửa năm, tôi đã để vào bức tranh sơn mài tất cả công
sức và sự suy nghĩ, và trong suốt thời gian ấy, một đôi lần tôi cũng gợi lại chuyện cũ
nhưng người thợ vẫn một mực cố tỏ ra chưa hề bao giờ quen biết tôi. Trở về làm một
anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho người
chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm. Lời đề nghị rụt rè của anh: Xin
mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về
chính mình.

(Trích Bức tranh, Tuyển tập Nguyễn Minh Châu, NXB Văn học, 2018, tr63)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1: Ngôn ngữ trong đoạn trích là lời của ai?

Câu 2: Theo đoạn trích, anh thợ cắt tóc có thái độ gì khi nhân vật tôi gợi lại chuyện cũ?
Câu 3: Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói
“anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho
người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm”.

Câu 4: Anh/ chị có đồng ý với “lời đề nghị rụt rè của anh: Xin mọi người hãy tạm ngừng
một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.”

PHAN II: LÀM vĂn (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm) Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 150 chữ) trình bày ý kiến của mình về quan điểm: sự ăn năn cũng là cách
để hoàn thiện bản thân.

Câu 2 (5,0 điểm)

Cúng mẹ và cơm nước xong, mấy chị em, chú cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. Chị Chiến
ra đứng giữa sân, kéo theo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp
tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch cùa mình
nhấc bổng một đẩu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên
nhà chú. chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập
con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng
chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn
mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng trên vai.

Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa. men theo chân vườn thoáng
mùi hoa cam. con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác.
(Trích Những đứa con trong gia đình, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, 2018, tr63)
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét tấm lòng của nhà văn
Nguyễn Thi dành cho người dân Nam bộ.

I.     ĐỌC HIỂU ( 3,0 ĐIỂM)

Đọc đoạn trích sau:

Họ gánh về cho tôi mùa ổi mùa xoài mùa mận
Mùa sen mùa cốm trên vai
Cả nắng ban mai cả hoàng hôn tím
Ngày đi rưng rưng đôi dép lê
Tôi mua được mùa ổi mùa sen bằng đồng bạc lẻ
Đồng bạc lặng lẽ
Thấm đẫm sương đêm thấm đẫm mồ hôi
Sau lưng họ đồng làng mồ côi hun hút gió
Vòng tay ngỏ
Lời ru con căng sữa
(.)

Những ngôi sao của tôi
Gánh trên vai mình hẩm hiu số phận
Vô danh giữa đời thường
Dẫu đôi lúc đặt vào mắt tôi bao tia nhìn mang hình dấu hỏi.

(Trích Những ngôi sao hình quang gánh, Nguyễn Phan Quế Mai,
https://daibieunhandan.vn/den-voi-tho-nhung-ngoi-sao-hinh-quang-ganh-120936

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ nhà thơ qua những từ ngữ nào?
Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về thân phận của người bán hàng rong?
Sau lưng họ đồng làng mồ côi hun hút gió

Vòng tay ngỏ

Lời ru con căng sữa
Câu 4. Anh/chị hãy nhận xét về cảm xúc và suy nghĩ của tác giả đối với người bán hàng rong được
thể hiện trong đoạn trích.

II.     LÀM VĂN ( 7.0 ĐIỂM)

Câu 1                                   ,               ,               ,

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của anh/chị về sự cần thiết của lòng trắc ẩn trong cuộc sống hiện đại.

Câu 2

Vườn cây rung rinh ánh sáng. Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị đang ôm chầm lấy mẹ,
chị Lụa cuống quýt vuốt ve con. Bà vợ Trương Ba xuất hiện ở phía trước sân khấu.

Vợ Trương Ba: Ông ở đâu? Ông ở đâu?

(Giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện)
Trương Ba: Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh
lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy cỏ. Không phải
mượn thân xác ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời,
trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu.

(Dưới một gốc cây, hiện lên cu Tị và cái Gái)

Cái Gái: (Tay cầm một trái na) Cây na này, ông nội tớ trồng đấy. Quả to mà ngon lắm. Ta ăn chung
nhé!

(Bẻ quả na đưa cho cu Tị một nửa. Đôi trẻ ăn ngon lành. Cái Gái lấy những hạt na vùi xuống đất.)
Cu Tị: Cậu làm gì thế?

Cái Gái: Cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi
mãi...

(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, tr.153)


Phân tích nhân vật Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó nêu lên ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân
sinh sâu sắc Mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.


ĐỀ MINH HỌA CHUẨN 2023

(Đề bài gồm 02 trang)

I.      ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Có một quy luật gọi là “quy luật mười nghìn giờ”. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng trong những
điều kiện thông thường, một người bình thường kiên trì làm một loại công việc gì đó, sau nhiều nhất là mười nghìn
giờ người ấy sẽ đạt đến trình độ thành thạo như một chuyên gia trong công việc ấy. Nếu các em đạt đến trình độ
chuyên gia, các em sẽ có chớ dùng, không phải nơi này thì là nơi khác, chắc chắn như vậy.

Còn một điều khác quan trọng hơn cả mười nghìn giờ, đó là sự yêu thích công việc của mình. Các em có
bao giờ nhìn thấy một người đầu bếp nổi danh và tài hoa nào lại miên cưỡng nấu bếp như một công việc khổ sai?
Có bao giờ thấy một ông thầy lên lớp chốc chốc lại nhìn đồng hồ mong cho hết giờ để ra về lại được học trò yêu
quý và nhớ mãi? Chắc chắn là không!

Các em không thể thành công thật sự trong công việc nếu các em không yêu thích công việc ấy. Có rất
nhiều người không may buộc phải làm một công việc nhàm chán mà họ không hề thấy hứng thú, chỉ như một kế
sinh nhai. Thật đáng tiếc vì tám giờ vàng ngọc, tức một phần ba cuộc đời của họ đã trôi qua một cách nhạt nhẽo
vô vị và uổng phí.

(Cuộc đời là một sự lựa chọn, TS.Phạm Thị Ly, báo Tuổi trẻ Online, ngày 29/4/2013)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.

Câu 2. Theo đoạn trích, một điều khác quan trọng hơn cả mười nghìn giờ là gì?

Câu 3. Nêu hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi tu từ trong các câu văn sau: Các em có bao giờ nhìn thấy
một người đầu bếp nổi danh và tài hoa nào lại miên cưỡng nấu bếp như một công việc khổ sai? Có bao giờ thấy
một ông thầy lên lớp chốc chốc lại nhìn đồng hồ mong cho hết giờ để ra về lại được học trò yêu quý và nhớ mãi?

Câu 4. Anh/Chị có cho rằng: buộc phải làm một công việc nhàm chán mà họ không hề thấy hứng thú, chỉ
như một kế sinh nhai
tức là một phần ba cuộc đời của họ đã trôi qua một cách nhạt nhẽo vô vị và uổng phí không?
Vì sao?

II.      LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm )

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của bản thân về ý nghĩa của việc lựa chọn đúng công việc mình yêu thích.

Câu 2 (5,0 điểm)

"Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể
được!

Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!

Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.

Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ớ bên ngoài,
tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải
khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên
khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!

Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái
thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông
chăng cần biêt!"

(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Ngữ văn 12, Tập hai,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr.149)

Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba thể hiện trong đoạn trích trên. Từ đó, hãy nêu giá trị
nhân văn cao cả được tác giả gửi gắm qua vở kịch.


ĐỀ THI THAM KHẢO KÌ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2023
Bài thi: NGỮ VĂN

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I.      ĐỌC - HIỂU (3.0 điểm)

Đọc đoạn trích

Ôi thiên nhiên, cảm ơn người nhân hậu
Những so le, người kéo lại cho bằng
Ít nhất cũng là khi nằm xuống
Trong mảnh gỗ rừng, dưới một vành trăng...

Những bia mộ thẳng hàng im lặng quá

Ai hay đâu mang hồn của bao người

Với bời bời nỗi niềm tâm sự

Đến bây giờ có lẽ cũng chưa nguôi... (...)

Trời rộng vô cùng, đất cũng rộng vô cùng
Bởi khoảng trống mỗi con người bỏ lại
Cái khoảng trống nhỏ nhoi bằng chính vóc họ thôi
Mà cả dãy Hoàng Liên không sao che lấp...

Tôi đi giữa nổi chìm bao số phận
Lòng lắng nghe muôn tiếng nói xa gần
Tôi không tin con người là ảo ảnh
Và cuộc đời là một thoáng giữa sân ga.

(Trần Đăng Khoa, Ở nghĩa trang Văn Điển, Bên cửa sổ máy bay, NXB Tác
phẩm mới, 1985))

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn trích trên

Câu 2. Tìm những từ láy có trong đoạn thơ

Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về quan niệm cuộc đời mà tác giả đề cập đến trong
đoạn thơ?

Câu 4. Anh/chị có đồng tình với quan điểm của tác giả cho rằng: “Tôi không tin con
người là ảo ảnh”

II.      LÀM VĂN (7,0 đim)

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng
200 chữ trình bày
suy nghĩ của mình về ý nghĩa của lối sống đẹp.

Câu 2. (5,0 điểm)

Hồn Trương Ba: (bịt tai lại)Ta không muốn nghe mày nữa!

Xác hàng thịt: (lắc đầu) Ông cứ việc bịt tai lại! Chẳng có cách nào chối bỏ tôi được
đâu! Mà đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông có nhớ hôm ông
tát thằng con ông toé máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh
của tôi! Ha ha..

Hồn Trương Ba: Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.

Xác hàng thịt: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải
lỗi tại tôi.. (buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý
trọng chứ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc
xới. ông nhìn ngắm trời đất cây cối người thân.. .Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận
thế giới này qua những giác quan của tôi. Khi muốn hành hạ tâm hồn con người. Người
ta xâm phạm thể xác.. Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào có tâm
hồn là quý, khuyên con người ts sống với hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở
nhếch nhác.. Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt hỏi có gì là tội
lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ?

Hồn Trương Ba: Nhưng.. .nhưng..

Xác hàng thịt: Hãy công bằng hơn, ông Trương Ba ạ! Từ nãy tới giờ chỉ có ông
nặng lời với tôi, chứ tôi thì vẫn nhã nhặn với ông đấy chứ? (thì thầm) Tôi rất biết cách
chiều chuộng linh hồn.

Hồn Trương Ba: Chiều chuộng?

Xác hàng thịt: Chứ sao? Tôi thông cảm với những trò chơi tâm hồn của ông. Nghĩa
là những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong
cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong
điều gì xấu ông cứ đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết cần phải để cho tính
tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện. hà hà.. .miễn là.. ông vẫn làm
đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát của tôi!

Hồn Trương Ba: Lí lẽ của anh thật ti tiện!

Xác hàng thịt: Ây đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy! Có phải lí lẽ của tôi đâu,
tôi chỉ nhắc lại những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy chứ! Đã
bảo chúng ta tuy hai mà một mà!

Hồn Trương Ba: (như tuyệt vọng) Trời! Xác hàng thịt (an ủi) Ông đừng nên tự dằn
vặt làm gì! Tôi đâu muốn làm khổ ông, bởi tôi cũng rất cần đến ông. Thôi, đừng cãi cọ
nhau nữa. Chằng còn cách nào khác đâu! Phải sống hoà thuận với nhau thôi! Cái hồn
vía ương bướng của tôi ơi, hãy về với tôi này!

(Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt. Trên sân khấu nhân vật
Trương Ba biến đi. Chỉ còn lại xác hàng thịt mang hồn Trương Ba ngồi lặng lẽ bên
chõng...)

(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,
Ngữ văn 12, tập hai, NXBGD Việt Nam, 2019)
Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong đoạn trích
sau. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về quan điểm triết lí nhân sinh của Lưu Quang Vũ được
thể hiện trong đoạn trích?


1.      Truyền thống: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát, song thất lục bát ( dùng từ
Hán Việt)

2.      Thơ hện đại: 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, tự do...( dùng từ thuần việt)

(3)      Xác định chủ đề của văn bản: Nhiệm vụ câu chủ đề: Khái quát ý toàn đoạn; Vị trí
câu chủ đề: Thường nằm ở đầu đoạn hoặc cuối đoạn. Trường hợp đặc biệt: câu chủ đề
có thể nằm ở câu thứ 2 trong đoạn hoặc ở những vị trí khác. Cần căn cứ vào nhiệm vụ
của câu để xác định.

(4) Xác định thể thơ:

1.     Thơ truyền thống: Lục bát, hát nói, song thất lục bát ( dùng từ Hán Việt)

2.      Thơ hiện đại: Tự do, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ. đây là những thể thơ thường xuất hiện
trong bài thi.

Câu 2 ( 0.75 đ):

-       Theo tác giả, theo đoạn trích.

-       Chỉ ra hình ảnh, phát hiện chi tiết.

-       Chỉ ra những hình ảnh nói về..

-       Chỉ ra phép liên kết được sử dụng => CÁC EM KHAI THÁC, TÌM KIẾM TRÍCH

DẪN CÂU TRẢ LỜI TRONG ĐOẠN TRÍCH

Câu 3 (1.0 đ)

-       Nêu tác dụng của biện pháp tu từ........

+ Các biện pháp tu từ:

-       So sánh, ẩn dụ, hoán dụ: tăng sức gợi hình gợi cảm ( làm câu văn, câu thơ sinh động)

-       Nhân hóa: Làm câu văn, câu thơ sinh động

-       Điệp (lặp): nhấn mạnh ý.

-       Câu hỏi tu từ: gợi hình gợi cảm, bộc lộ cảm xúc.

-       Nêu tác dụng của việc sử dụng kiểu câu, dấu câu, phép liên kết.

Đối với 2 dạng câu hỏi trên, cần trả lời các ý sau:

Gọi đúng tên biện pháp tu từ (kiểu câu, dấu câu, phép liên kết)

Chỉ ra dấu hiệu nhận biết, từ ngữ thể hiện biện pháp tu từ hoặc phép liên kết đó.

Tác dụng:

+ Sử dụng nhằm mục đích gì?

+ Nó tác động đến người đọc như thế nào

+ Nó bộc lộ điều gì ở tác giả?

-       Nêu nội dung..

-       Anh/chị hiểu....

Học sinh giải thích câu nói:

-       Câu nói đó được hiểu như thế nào? (nội dung)

Nó nhằm khẳng định, đề cao điều gì (ý nghĩa).

Câu 4 (0,5 đ)

-       Nhận xét về thái độ, tình cảm của tác giả

Đó là thái độ tình cảm gì?

Trân trọng, yêu mến, tự hào...

Cảm thông, chia sẻ, đau đớn xót thương...

Không đồng tình, bất bình, căm phẫn,.

-       Em có đồng tình với ý kiến.không? Vì sao?

Trả lời ý 1:

+ Tôi đồng tình với ý kiến trên (Hoặc Tôi không đồng tình/ Tôi có phần đồng tình, có
phần không đồng tình.

Trả lời ý 2.

Giải thích vì sao:

+ Chỉ ra tính đúng đắn, tầm quan trọng của vấn đề nêu trong ý kiến.

+ Chỉ ra mặt trái của vấn đề (nếu có)

-       Rút ra thông điệp (bài học):

-       Chỉ ra các bài học, các thông điệp từ đoạn văn bản.

-       Thông thường nên rút từ 4-5 bài học.

-       Mỗi bài học trình bày bằng 1 câu mệnh lệnh cầu khiến đảm bảo đúng cấu trúc câu,
thường có các từ đi kèm như:

hãy, đừng, nên, cần, phải.

-       Thông điệp tâm đắc nhất là gì? V1 sao?

Trả lời 2 ý

Ý1. Thông điệp tôi tâm đắc nhất là: “. ”

Ý 2. Giải thích vì sao:

Bởi vì nó khiến bản thân tôi nhận ra rằng..

Nó giúp cho mọi người, xã hội ... CHỈ CHỌN 1 THÔNG ĐIỆP

-       Nhận xét/ suy nghĩ của anh chị....

+ Suy nghĩ.

+ Hành động

II. LÀM VĂN

CÂU 1: 2.0 Đ

MÔ HÌNH KHÁI QUÁT CHO ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI KHOẢNG 200
CHỮ:

1.      Thể thức: 1 đoạn duy nhất

-       Không cách đoạn

-       Không cách dòng

-       Không gạch đầu dòng.

2.      Cách hành văn:

-       Mở đoạn: TỪ NỘI DUNG ĐOẠN TRÍCH Ở PHẦN ĐỌC HIỂU+ TÊN ĐOẠN
TRÍCH+ GIÚP CHÚNG TA CÓ SUY NGHĨ SÂU SẮC VỀ...ĐƯA ĐỀ VÔ

-       Thân đoạn:

-       Giải thích: vấn đề đó được hiểu là ( A được hiểu là.. )

-       Biểu hiện của vấn đề: A là. biểu hiện...

-       Ý nghĩa: A giúp chúng ta nhận được gì, cho đi cái gì...

-       Nêu gương

* NL Hiện tượng đời sống:

-       Nguyên nhân thực trạng

-       Phản đề

-       Nhận thức và hành động: là hs khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần....

-       Kết đoạn: dùng 1 câu để đánh giá lại vấn đề.

Câu 2 (5.0 đ): NGHỊ LUẬN vĂn học

-       Thể thức: 3 phần:

+ Mở bài ( 1 đoạn): giới thiệu vị trí của tác giả, phong cách sáng tác; tác phẩm; vấn đề
cần NL

+ Thân bài: ít nhất 4 đoạn

VĂN:

-       Đoạn 1:

+ Nêu xuất xứ

+ hoàn cánh ra đời

-       Đoạn 2:

+ Phân tích nhân vật: hoàn cảnh, xuất thân.

-       Đoạn 3:

+ Tính cách nhân vật

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật ( kể chuyện, biệt tài xây dựng nhân vật, từ ngữ nhân
vật)

THƠ:

-       Đoạn 1: Hoàn cảnh, xuất xứ

-       Đoạn 2: Nội dung: Phân tích các câu thơ

-       Đoạn 3: Nghệ thuật:

+ Thể thơ

+ Ngôn ngữ

+ Sử thi....

-       Đoạn 4: khẳng định vai trò của tác giả ( đánh giá).

-       KẾT BÀI:

+ Bài thơ khái quát một thời kì lịch sử...

+ Đoạn văn cho ta thấy....

LÝ THUYẾT CÁC TÁC PHẨM TRỌNG TÂM

Bài 2 : TÂY TIẾN

(Quang Dũng)

II. Nội dung

1. Khổ 1: Nơi nhớ của tác giả về con đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến.

-      Hai câu đầu khái quát nỗi nhớ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

+ Đoạn thơ diễn đạt nỗi nhớ của Quang Dũng gắn với sông Mã, với núi rừng Tây Bắc, với
những vùng đất lạ, hoang sơ, hùng vĩ và đặc biệt klà đoàn quân Tây Tiến trong những cuộc
hành quân gian lao mà kiêu dũng.

+ Tác giả phối hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật để bày tỏ nỗi nhớ: Bài thơ bắt đầu bằng một lời
gọi tha thiết
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!. Sông Mã chảy qua Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa.
Nơi đây lưu giữ nhiều kỉ niệm về đồng đội cũ, được nhắc đến như một cái cớ khơi gợi cảm
xúc, như nhịp cầu nối kí ức của Quang Dũng với Tây Tiến.

+ Câu hai là hoài niệm của tâm hồn Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi. Điệp từ nhớ như hai nốt
nhấn khiến câu thơ đong đầy nỗi nhớ cháy bỏng, da diết đến quặn lòng.
Nhớ về rừng núi là nhớ
về thiên nhiên Tây Bắc, nhớ con đường hành quân và cũng là nhớ về Tây Tiến. Từ láy
chơi vơi
rất sáng tạo, diễn tả cảm giác bồng bềnh huyền ảo, lơ lửng. Dường như nỗi nhớ xóa nhòa
khoảng cách thời gian, không gian, đưa con người đắm vào quá khứ, sống với kỉ niệm. Một nỗi
nhớ mênh mang, đầy ắp.

+ Điệp vần ơi trong các tiếng ơi, chơi, vơi tạo âm hưởng mênh mang như kéo dài thêm nỗi nhớ
tô đậm âm hưởng chủ đạo của toàn bài.

-      Nỗi nhớ được khắc họa cụ thể: Nhớ thời tiết Tây Bắc khắc nghiệt:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

+ Tác giả liệt kê các địa danh Sài Khao, Mường Lát không chỉ gợi bao cảm xúc nhớ thương mà
còn tạo ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang vu, bí ẩn của những vùng đất lạ, chứa đựng nhiều
khó khăn, thử thách ý chí của con người.

+ Hình ảnh Sương lấpđoàn quân mỏi là những hình ảnh miêu tả hiện thực. Các chiến sĩ
hành quân trong sương mù giá lạnh. Sương dày đặc, sương che lấp cả đoàn quân. Chữ
mỏi nói
lên bao gian khó mà người lính phải trải qua.

+ Hình ảnh hoa về trong đêm hơi thật đẹp, vừa khắc họa vẻ thơ mộng của núi rừng Tây Bắc
vừa gợi nét lạc quan ở những người lính trẻ và chất lãng mạn trong hồn thơ Quang Dũng (so
sánh, nhà thơ không nói
hoa nở mà nói hoa về vì có bóng dáng của người mang hoa trong đó;
không nói
đêm sương mà nói đêm hơi) giúp ta cảm nhận người lính như đi ở chốn bồng lai tiên
cảnh, ở xứ sở thần tiên, ở cõi mộng chứ không phải không gian thực tại

-> hé mở tâm hồn hào hoa, lãng mạn.

-> Ngay từ bốn câu thơ mở đầu, Quang Dũng đã tạo được âm điệu thơ sâu lắng. Nhà thơ đã
kết hợp hài hòa giữa chất hiện thực và chất lãng mạn, thể hiện một ngòi bút tài hoa, phóng
khoáng.

-      Nhớ địa hình Tây Bắc hiểm trở:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

+ Đây là câu thơ miêu tả rất thực con đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến với
núi cao, vực sâu, đèo dốc hiểm trở, cheo leo. Và sánh ngang với núi rừng hùng vĩ là tinh thần
quả cảm của người lính.

+ Tác giả phối hợp tài tình các biện pháp nghệ thuật đặc sắc:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

+ Điệp từ dốc và từ láy khúc khuỷu, thăm thẳm diễn tả sự quanh co, hiểm trở của dốc núi, đường
lên rất cao và xuống rất sâu. Câu thơ có bảy chữ mà hết năm chữ mang thanh trắc
(dốc, khúc,
khuỷu, dốc, thẳm)
tạo âm điệu trúc trắc, vừa gợi con đường ghập ghềnh cheo leo vừa gợi hơi
thở gấp gáp của người lính khi vượt dốc:

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

+ Từ láy heo hút gợi nét hoang sơ, vắng vẻ đồng thời vẻ ra thế núi hùng vĩ. Núi cao ngập vào
trong những cồn mây.

+ Súng ngửi trời là một hình ảnh nhân hóa thật thú vị, vừa tả độ cao của núi, của dốc như cao
đến tận trời, vừa thể hiện nét tinh nghịch của người lính. Từ
ngửi tạo hiệu quả nghệ thuậtthể
hiện sự hiên ngang, vững chãi của người chiến sĩ bảo vệ vùng trời, vùng đất của Tổ quốc.

+ Điệp ngữ ngàn thước nhấn vào con số ước đoán phỏng chừng gợi cái vô cùng, vô tận của
núi. Câu thơ
ngàn thước lên, cao ngàn thước xuống như bị bẻ làm đôi, bởi nghệ thuật đối diễn
tả hai sườn núi dốc dựng đứng, vút lên cao rồi đổ đổ xuống sâu rất nguy hiểm.

+ Trong màn mưa giăng mịt mù, núi rừng, nhà cửa như ngập chìm trong nước:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

+ Hình ảnh mở ra một không gian xa rộng. Người lính tạm dừng chân bên dốc núi, phóng tầm
mắt ra xa. Trong màn mưa giăng mịt mù, những ngôi nhà sàn như bồng bềnh ẩn hiện. Câu thơ
toàn thanh bằng gợi tả niềm vui, một chút bình yên trong tâm hồn người lính.

-> Bốn câu thơ phối hợp với nhau thật hài hòa. Sau những câu thơ vẽ bằng những nét gân
guốc là những câu thơ vẽ bằng nét mềm mại. Nhà thơ phối hợp bằng trắc cũng giống như cách
sử dụng những gam màu trong hội họa. Giữa những gam màu nóng, nhà thơ dùng một gam
màu lạnh làm dịu khổ thơ. Đó cũng là bằng chứng “thi trung hữu họa” trong thơ Quang Dũng.

-      Nhớ sự hiểm nguy của núi rừng: Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người, Quang Dũng
không hề né tránh hiện thực:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

+ Người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân gian khổ ấy đã có người ngã xuống vì kiệt sức.
Dãi dầu là dầm mưa dãi nắng, vất vả khó nhọc. Không bước nữa là kiệt sức. Gục lên súng mũ
là ngã xuống. Bỏ quên đời là hi sinh, mất mát. Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã làm cho câu
thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó là sự bi tráng, hào hùng. Người lính ra đi mà như đi
vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý tưởng
Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh.

-      Nhớ những gian khổ, hi sinh của đồng đội: Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không
chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại
ngàn hoang vu:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người


-     Nhớ tình quân dân ấm áp: Sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng
chân lại ở một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương - Mai Châu. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm
xúc bồi hồi tha thiết:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

+ Nhớ ôi! từ cảm thán mang tình cảm dạt dào. Khung cảnh đậm đà tình quân dân. Sau một thời
gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào
tiếp đón bằng
cơm lên khói cùng mùi hương thơm nếp xôi thật là ấm bụng. Chính nơi đây, mọi
khó khăn gian khổ như bị đẩy lùi mà thay vào đó là niềm lạc quan và tình thơ đong đầy.

-> Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài
hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ
thuật: Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập.tất
cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị.

2.    Khổ 2: Những kỉ niệm đẹp của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống
Pháp.

-     Nếu 14 câu đầu chủ yếu thể hiện sức mạnh hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến trong cuộc
hành quân giữa núi rừng miền Tây hiểm trở thì tới đoạn hai, qua những kỷ niệm ngọt ngào tươi
sáng, nhà thơ đã tập trung miêu tả nét hào hoa nghệ sỹ trong tâm hồn những chàng trai Hà
thành lãng mạn, mộng mơ.

2.1.    Bốn câu đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của người chiến
sĩ Tây Tiến về một đêm lửa trại nơi trú quân giữa một bản làng nào đó ở miền Tây

-     Bốn câu đầu ru ta trong nhạc điệu cất lên từ men say của tâm hồn người lình Tây Tiến:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

+ Đây là lần thứ hai đuốc được liên tưởng đến hoa - nếu trong đêm sương Mường Lát, chiến
sỹ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo như
hoa về trong đêm hơi thì lần này,
trong một đêm lửa trại giữa bản mường miền Tây, bút pháp lãng mạn đã khiến ảnh lửa bập
bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ, gợi những liên tưởng thú vị, đem đến sự náo
nức, rạo rực trong lòng người, khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội
tưng bừng.

+ Cụm từ bừng lên là một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó đem đến ấn tượng về ánh sáng
và đây là ánh sáng chói lòa, đột ngột của lửa, của đuốc, xóa đi cái tối tăm lạnh lẽo của núi rừng,
thể hiện niềm vui sướng, rạo rực trong lòng người. Người đọc còn có thể hình dung ra những
ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của các chiến sĩ, bừng sáng vì sự phản chiếu
của ánh lửa bập bùng đêm hội, bừng sáng còn vì ngọn lửa ấm nóng trong tâm hồn, ngọn lửa
của niềm vui trẻ trung, lạc quan, ngọn lửa của tình yêu với con người và mảnh đất miền Tây.

-     Câu thơ thứ hai là hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các thiếu nữ miền sơn cước:

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

+ Từ kìa và cụm từ nghi vấn tự bao giờ đã bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa ngưỡng
mộ trìu mến của các chiến sỹ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất
chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc
thẳm, sương dày, với mua rừng và thú dữ. Với niềm vui tỏa ra từ câu thơ, Quang Dũng còn đưa
người đọc đến một cảm nhận thú vị khi liên tưởng tới câu thơ đầu.
Doanh trại bừng lên hình


như không chỉ vì ánh sáng của lửa, của đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ
miền Tây.

+ Các cô gái hiện lên với hai ấn tượng đẹp đẽ bởi bút pháp mỹ lệ hóa trong xiêm áo lộng lẫy
và nét
e ấp đầy nữ tính. Những ấn tượng ấy khiến các cô đẹp hơn trước một đoàn quân xanh
màu lá,
duyên dáng hơn trước những người lính dữ oai hùm. Nét tương phản của cảm hứng
lãng mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều hiện thực khắc nghiệp của chiến tranh.

+ Người lính Tây Tiến không chỉ ngỡ ngàng, say đắm trước vẻ đẹp của những thiếu nữ miền
Tây e ấp và duyên dáng mà còn mơ màng trong
man điệu núi rừng. Man điệu có thể hiểu là vũ
điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể là giai điệu mới mẻ của vùng đất lạ trong tiếng
khèn lên mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa nghệ sỹ, đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp,
người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm
thanh ngọt ngào, những đường nét duyên dáng trong đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu
bay bổng trong thế giới mộng mơ với những vẻ đẹp say người của phương xa đất lạ. Câu thơ
có tới sáu thanh bằng đã diễn tả tinh tế cảm giác mơ màng chơi với ấy.

-> Nhịp điệu của bốn câu thơ như nhịp nhặt khoan, dìu dặt của tiếng khèn, gợi vẻ khỏe khoắn,
trẻ trung. Bốn câu thơ chan chứa màu sắc, âm thanh, vừa ấm áp tình người.

2.2.     Bốn câu sau thể hiện nơi nhớ về cảnh và người miền Tây

-     Những hoài niệm rực rỡ và sống động về một đêm lửa trại đã được thay bằng những bâng
khuâng xa vắng trong nỗi nhớ tha thiết mênh mông về cảnh sắc con người miền Tây Bắc:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

+ Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn với người đi, nhưng đâu chỉ là nhắn với ai đó mà
thực ra nhà thơ đang để lòng mình hướng về Châu Mộc, hướng về núi rừng Miền Tây, trong
một chiều sương nhạt nhòa, màn sương huyền ảo của núi rừng, màn sương huyền ảo của hoài
niệm, nhớ nhung.

+ Trong tiếng Việt, ấy là một đại từ chỉ định luôn đem đến sắc thái xa xôi, mơ hồ cùng nỗi nhớ
tiếc cho những danh từ đứng cùng với nó như: thuở ấy, ngày ấy, người ấy.

-      Và bây giờ, khi đang ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng cũng nhắc về chiều sương ấy với
bao nỗi nhớ thương lưu luyến khi Châu Mộc trở nên nhạt nhòa trong sương khói và buổi chiều
miền Tây với cảnh, với người đã bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm:

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đongđưa.

+ Sau lời nhủ thầm xao xuyến, nhà thơ cất lên những tiếng hỏi mà phép điệu trong cấu trúc
câu:
Có thấy hồn lau... có nhớ dáng người... đã thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở hướng về
cảnh và người:

-     Câu hỏi thứ nhất hướng về những hàng lau xám buồn bên bờ sông hoang dại:

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

+ Nét đặc sắc trong câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về hồn lau thay vì bờ lau, hàng lau hay
rừng lau... Hoa lau có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li li nên chỉ
cần một chút gió rất nhẹ hoa cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng của hoa
lau trong chiều sương nhạt nhòa, mơ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi đã
khiến rừng lau như có hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ
càng mênh mông da diết.

+ Khi đã xa miền Tây, câu hỏi có thấy hồn lau nẻo bến bờ càng làm xao xác lòng người. Hoa
lau thường mọc ven bờ sông, triền núi, nơi vắng người qua lại. Trong những năm tháng quá
khứ, người chiến sỹ Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây, bên dòng sông Mã, giữa phơ
phất ngàn lau, lau như linh hồn của rừng núi chia sẻ buồn vui với chiến sỹ trên đường hành
quân. Nay người đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông gió núi, cảm giác về những bờ
lau cô đơn
nẻo bến bờ khiến nỗi nhớ càng xao xác trong lòng người đã chia xa.

-     Câu hỏi thứ hai dành cho con người miền Tây Bắc:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

+ Trong làn sương mờ của hoài niệm, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ
xa huyền ảo. Dáng người ấy vừa cứng cỏi, kiên cường trên con thuyền
độc mộc đè thác lũ băng
băng lướt tới, vừa mềm mại, duyên dáng trong hình ảnh ẩn dụ
hoa đong đưa. Quang Dũng
không viết
hoa đung đưa mà là hoa đong đưa vừa nhằm miêu tả sự duyên dáng của hoa trên
dòng nước lũ vừa gợi tả tinh tế dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của những sơn nữ miền sơn cước.
Xuân Diệu cũng thật có lý khi nói rằng:
Đọc Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong
miệng.

-> Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền tây với vẻ đẹp
mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển.
Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của tác giả trong tổng thể bài thơ.

3.     Khổ 3: Chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn trong
máu lửa chiến tranh.

3.1.    Diện mạo kì dị, phi thường

Trên những nẻo đường hành quân, chiến đấu, vượt qua bao đèo cao dốc hiểm, đoàn quân Tây
Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến
binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc
men, lương thực.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

+ Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống Pháp.
Hình ảnh đoàn quân
không mọc tóc vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc liệt của chiến
tranh. Cái hình hài không lấy gì làm đẹp
không mọc tóc, xanh màu lá tương phản với nét dữ
oai hùm.
Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang , tinh thần quả cảm
xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ.

+ Dữ oai hùm là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến, tuy các chiến sĩ có
gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi rừng xanh. Cái tài
của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây Tiến tuy gầy gò, xanh xao
nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người lính.

3.2.    Tâm hồn hào hoa, lãng mạn

-     Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, bệnh
tật, ... nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

+ Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, biên giới
là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân thương.

+ Mắt trừng - hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của
người lính trong khói lửa ác liệt,
gửi mộng qua biên giới là mộng tiêu diệt kẻ thù,bảo vệ biên
cương, lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn quân Tây Tiến, của chiến
sĩ.

+ Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội, về dáng kiều thơm. Chiến sĩ
Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội
Xếp bút nghiên theo việc đao cung, họ là những
chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc để
thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long. Sống giữa
chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh luôn hướng về Hà Nội, mơ về Hà Nội. Đúng vậy,
làm sao các anh có thể quên được hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,... Làm sao các anh
quên được những tà áo trắng, những cô gái thân thương,... những
dáng kiều thơm đã từng hò
hẹn,...? Hình ảnh
dáng kiều thơm của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị,
ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời
tiền chiến nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng nó trở
nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến trong
trận mạc.

+ Viết về mộng của trung đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan,
yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung người lính
xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm kháng chiến chống Pháp.

3.3.    Lí tưởng cao cả

-     Trong gian khổ chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ nằm lại
nơi chân đèo góc núi:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

+ Câu thơ Rải rác biên cương mồ viễn xứ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự
hào. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám lạnh, ảm đạm, hiu
hắt và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài của Quang Dũng là đã tạo cho
nó một văn cảnh, tiếp theo sau là
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Khi nằm trong văn cảnh
ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí, tinh thần của người lính Tây Tiến.
Đời xanh là đời trai trẻ,
tuổi xuân.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo
vệ biên cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do. Họ là những thanh niên Hà Nội, họ tiến về
miền Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dầu thấy cái chết trước mắt họ vẫn
không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng
quyết tử cho Tố quốc quyết sinh.

+ Câu thơ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả.
Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Tinh thần
của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong những năm kháng chiến
chống Pháp.

3.4.    Sự hi sinh bi tráng

-    Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai câu cuối
của đoạn thơ:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

+ Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các
chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm áo bào bình dị ấy
về với đất. Một sự ra đi
thật nhẹ nhàng, thanh thản! Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã xuống là
về đất, nằm trong
lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ
chết, hi sinh mà dùng từ về đất để ca
ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ
Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã hi sinh cho quê hương,
anh về đất bằng tất
cả tấm lòng thủy chung son sắt với Tố quốc. Vì thế mà
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

+ Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu trầm
hùng, thương tiếc.
Sông mã gầm lên hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên khúc nhạc tiễn đưa
linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ.

=>Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài. Đoạn thơ
đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và
biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ
Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và chết vẻ vang.

Bài 3 : VIỆT BẮC

(Tố Hữu)

1. Cuộc chia tay giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến (8 câu đầu)

-       Đoạn thơ mở ra với cảnh chia tay lưu luyến đầ xúc động của những người đã từng gắn bó suốt
mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình. Bao trùm trong tâm trạng kẻ ở người đi là nỗi
nhớ da diết mênh mang với nhiều sắc thái khác nhau. Bốn câu thơ đầu là lời của người Việt
Bắc:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?

+ Nhà thơ để cho người ở lại lên tiếng trước. Haiđại từ mình - tađược lặp lại nhiều lần. Đó là
cách xưng hô thân mật lấy trong ca dao, dân ca, là lời xưng hô trong tình yêu lứa đôi, nghe thiết
tha bâng khuâng được Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt.
Mình là người cán bộ về xuôi, ta là người
Việt Bắc.

+ Cụm từ mười lăm năm ấy gợi nhắc câu Kiều của Nguyễn Du:

Mười lăm ấy biết bao nhiêu tình.

đó là sự kế thừa thơ ca truyền thống của dân tộc của Tố Hữu. Câu hỏi tu từ có nhớ ta, “có nhớ
không
nghe da diết, nhắn nhủ, tâm tình.

-      Ở bốn câu đầu này, người Việt Bắc hỏi người cán bộ có nhớ Việt Bắc không. Nghĩa là có nhớ
quê hương cách mạng, cội nguồn cách mạng không? Hỏi mà là nhắc nhở, nhắn gửi người về
đừng quên Việt Bắc, đừng quên chính mình. Lời hỏi cũng là lời nhắc nhở, nhắn gửi người về
đừng quên Việt Bắc.

-       Bốn câu thơ tiếp là lời người cán bộ về xuôi. Đáp lại lời của người Việt Bắc, người cán bộ cất
tiếng thiết tha:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.

+ Ai là đại từ phiếm chỉ, chỉ người Việt Bắc.

+ Các từ láy: tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn đặc tả chính xác tâm trạng vấn vương, lưu luyến,
bịn rịn.

+ Áo chàm: Nghệ thuật hoán dụ để chỉ đồng bào Việt Bắc, vì người Việ Bắc thường mặc áo
chàm. Màu chàm là màu đơn sơ, chân thực, không lòe loẹt mà giản dị, chân thành, chung thủy.
Câu thơ
Áo chàm đưa buổi phân li ngắt nhịp 3/3 tạo khoảng lặng lắng đọng cảm xúc. Đó có
thể là khoảnh khắc người dân Việt Bắc không thốt nên lời hay đang buông tiếng nấc nghẹn
ngào tha thiết.

+ Câu hỏi tu từ và dấu chấm lửng ở cuối câu:Cầmtay nhau biết nói gì hôm nay... thể hiện tình
cảm tha thiết. Ngôn ngữ bàn tay nóng ấm gắn với trái tim đầy xúc động.
Biết nói gì, không phải
là không biết nói gì, không có gì để nói mà là biết nói sao cho thỏa nỗi nhớ thương.

=> Việt Bắc chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng
chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với
ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc
trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu.

2.      Lời nhắc nhở của người ở lại (12 câu tiếp)

- Lối xưng hô “mình”, “ta” như tình yêu đôi lứa trong ca dao dân gian, Tố Hữu đã lý giải cho
mối quan hệ gắn bó giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc bằng giọng điệu ngọt ngào
tha thiết Mười hai câu thơ tạo thành 6 câu hỏi.

+ Mình còn nhớ hay không những ngày tháng gian khổ:

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù.

Thời tiết khắc nghiệt, dữ dội “mưa nguồn suối lũ”; lạnh lẽo với những “mây cùng mù”. Đó
còn là những ẩn dụ nghệ thuật nói đến những tháng ngày gian nan vất vả của cán bộ và nhân
dân Việt Bắc mà suốt đời họ có thể nào quên ?

+ Mình còn nhớ hay không những cảnh sinh hoạt thiếu thốn:

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

“Miếng cơm chấm muối ” gợi những năm tháng gian nan thiếu thốn trong kháng chiến. Nhưng
họ tạm thời quên đi những khó khăn ấy bởi họ đang phải gánh vác một nhiệm vụ nặng nề, to
lớn. Mối thù giặc Pháp đang đè nặng lên đôi vai của dân tộc. Hai câu thơ như một lời nhắc nhở
kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào,
“mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau,
cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống
hạnh phúc, ấm no. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 - 4/4 đều đặn khiến cho
câu thơ trở nên nhịp nhàng, tha thiết.

+ Hỏi người ra đi chưa thỏa, Người Việt Bắc còn hỏi chính lòng mình:

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Rừng núi nhớ hay đồng bào Việt Bắc nhớ. Nghệ thuật hoán dụ kết hợp với nhân hóa, Tố Hữu
đã diễn tả sinh động tấm lòng của đồng bào Việt Bắc đối với Cách mạng. Trám và măng là
lương thực chủ yếu của bộ đội ta khi còn ở Việt Bắc. Nay người đi rồi, trám để rụng, măng để
già không người thu hái. Không chỉ có con người nhớ nhung mà đến thiên nhiên cũng cảm thấy
cô dơn trống vắng. Thiên nhiên như cũng nặng tình, nặng nghĩa với con người.

+ “Mình” có còn nhớ tấm lòng của người dân Việt Bắc ?

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

Những ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc, nghèo khổ trong dáng vẻ “hắt hiu lau xám” gợi nỗi buồn
hiu quạnh. Bên trong
“những ngôi nhà” ấy lại chứa đựng tấm lòng son sắt thủy chung, nghĩa
tình. Hình ảnh thơ được đặt trong thế tương phản kết hợp với nghệ thuật hoán dụ, nhà thơ đã tô
đậm tấm lòng của nhân dân Việt Bắc- những con người đã góp phần làm nên Điện Biên
“Lừng
lẫy năm châu chấn động địa cầu”.

+ Những kỷ niệm của một thời kháng chiến:

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh

Mình đi mình lại nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Câu thơ gợi nhắc hai sự kiện lịch sử: “Khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”. Đây là phong trào
lớn mạnh đã tạo thành một mặt trận vũ trang góp phần làm nên chiến thắng của Cách mạng
tháng Tám và tiền đề cho những thắng lợi kháng Pháp sau này.

Hai câu thơ sau có đến ba từ “mình”. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người
cán bộ về xuôi, còn từ
“mình” thứ ba ta có thể hiểu: cán bộ về xuôi, có còn nhớ chính mình -
nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay
không? Người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên
chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của
bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến
thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.

Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22.12.1944 đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ
xuất quân cho đội VN tuyên truyền giải phóng quân. Mái đình Hồng Thái gợi nhắc những cuộc
họp quan trọng mang tầm chiến lược đi đến sự thắng lợi của Cách Mạng. Với lối điệp cấu trúc
kết hợp nhịp thơ 2/2/2 - 4/4, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng, gợi cho ta
cảm nhận được những cung bậc, những sắc thái khác nhau trong tâm trạng của người ở lại.

3.      Lời người đi: Nỗi nhớ da diết về thiên nhiên con người Việt Bắc

3.1.      Khẳng định ân tình sắt son (4 câu đầu)

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.

-Ta với mình/mình với ta: ngắt nhịp 3/3, mình - ta lặp lại -> quấn quýt, gắn bó, không thể chia
cắt -> Vận dụng sáng tạo ca dao (Mình với ta tuy hai mà một/Ta với mình tuy một mà hai) ->
mượn tình cảm lứa đôi để diễn tả tình cảm cách mạng khăng khít bền chặt.

-       Khẳng định: lòng ta - sau trước - mặn mà- đinh ninh -> nhịp 2/2/2/2, kết hợp với 2 từ láy ->
là lời khẳng định chắc nịch

-      Mình đi mình lại nhớ mình:

+ Chữ “lại ”: thanh trắc ở âm vực trầm nhất > câu trả lời vừa là lời khẳng định, vừa là một
nguyện thề thiêng liêng với người ở lại, với chính mình.

+ Gắn với câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình” -> Sự vận dụng sáng tạo cấu trúc ca dao
(Thuyền về có nhớ bến chăng/Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền): không chỉ có một vế
đơn độc- vế hỏi vừa như nêu băn khoăn, vừa khẳng định lòng thuỷ chung của bến đợi mà còn
có vế đáp để nói rõ sự chung thuỷ sắt son của người ra đi.

-       Cách so sánh, cách đo đếm đậm màu sắc dân gian: Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy
nhiêu diễn tả được nghĩa tình cách mạng là vô hạn tận, như suối nguồn không bao giờ vơi cạn
-> khẳng định lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với quê hương kháng chiến của người
cán bộ vê xuôi.

3.2.      Nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

-       Hình ảnh so sánh như nhớ người yêu thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Cách so sánh
này mới lạ sáng tạo, chỉ với “
như nhớ người yêu” mà người đọc có thể thấy hết được tình cảm
của người ra đi.

-       Hình ảnh gợi cảm đầy thi vị: bản khói cùng sương, bếp lửa, trăng lên đầu núi, rừng nứa bờ tre,
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê ... gợi nhớ những nét nhớ nhung tưởng như nhẹ nhàng mà lại hóa
tha thiết, mãnh liệt.

3.3.      Nhớ những ngày khó khăn gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

-       Từ xưng hô mình, ta: thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa người cán bộ cách mạng và Việt
Bắc.

-       Ta đi ta nhớ, mình đây ta đó: kết cấu đối xứng thể hiện giọng thơ rắn rỏi, nói lên tình cảm gắn
bó tha thiết, nhớ thương của người cán bộ đối với Việt Bắc.

-Đắng cay, ngọt bùi: từ ngữ tương phản nói lên kỷ niệm phong phú, sâu sắc của cán bộ trong
những tháng ngày gian khổ nơi Việt Bắc và với người dân Việt Bắc.

-Chia, sẻ, đắp cùng: những động từ bộc lộ tình cảm đồng cam cộng khổ của Việt Bắc và cách
mạng.

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.

-       Trong nỗi nhớ của người cán bộ, hình ảnh người dân Việt Bắc hiện lên chân thật và đầy xúc
động với hình ảnh
người mẹ nắng cháy lưng / địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô. Đó là người
lao động nghèo khổ, neo đơn nhưng dạt dào ân tình với cách mạng, không ngại vất vả, cực khổ
lao động góp phần tạo nên lương thực cho cách mạng nuôi quân. Hình ảnh thơ giàu sức gợi,
phản ánh tình cảm sắc son của đồng bào dân tộc đối với cách mạng.

-Nắng cháy lưng: hình ảnh hiện thực có sức gợi thời tiết khắc nghiệt, qua đó nói lên sự vất vả,
gian khổ.

-       Địu con lên rẫy: lời thơ giản dị, cũng là hình ảnh hiện thực, gợi lên hoàn cảnh neo đơn của
người mẹ dân tộc.

-> Từ đó tình cảm sắc son cao đẹp của người dân tộc đối với cách mạng càng hiện lên rõ nét.

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

-       Con người và cảnh vật gắn bó với nhau. Nhớ về con người Việt Bắc, người cán bộ cách mạng
lại nhớ trở lại những kỷ niệm gắn bó ở Việt Bắc. Đó là kỷ niệm với những lớp học bình dân
học vụ (lớp học i tờ), những đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng, những ngày tháng công tác
ở cơ quan, gian nan nhưng lạc quan, đầy ắp yêu thương với tiếng hát , tiếng ca vang dội cả núi
rừng.

-Đồng khuya đuốc sáng: lời thơ gợi lên hình ảnh những đêm liên hoan văn nghệ, vui vẻ tưng
bừng nơi rừng núi.

-Ca vang núi đèo: lời thơ mang tính chất ẩn dụ, phản ánh tinh thần lạc quan, tình cảm đoàn kết
gắn bó giữa cách mạng và người dân Việt Bắc.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

-       Cảnh vật Việt Bắc với nét gợi cảm trong buổi chiều và đêm tối, hiện lên sống động, tha thiết
trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi.

-      Từ nghi vấn sao kết hợp với nhớ làm cho giọng thơ trở nên tha thiết, phù hợp với tâm trạng
của người cán bộ cách mạng về xuôi.

-Rừng chiều, suối xa: hình ảnh thơ gợi lên khung cảnh trữ tình, gợi cảm của núi rừng Việt Bắc.

-       Cảnh vật được mô tả với chi tiết về âm thanh (tiếng mỏ, chày đêm nện cối) thể hiện khung
cảnh đặc trưng của núi rừng. Am thanh vang vọng gợi tới những ký ức xa xôi nhưng tha thiết
và đầy ám ảnh trong tâm tư của những kẻ chia li.

=> Đoạn thơ là một khúc tình ca tha thiết thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh
vật và con người Việt Bắc. Nó có cội nguồn sâu xa từ tình yêu quê hương đất nước, niềm tự
hào về sức mạnh của nhân dân, truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.

3.5.      Nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc (Vẻ đẹp bức tranh tứ bình)

-      Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là nỗi nhớ về Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

+ Tác giả sử dụng điệp ngừ hai lần ta về. Cùng một thời điểm chia tay nhưng ở trên là hỏi
người, ở dưới là giãi bày lòng mình. Cặp từ
ta, mìnhđược xưng hô như cách đối đáp giao duyên
của trai gái trong ca dao, dân ca khiến cho cuộc chia tay của người cán bộ và Việt Bắc thành
cuộc
giã bạn của lứa đôi. Ta là người cán bộ kháng chiến, mình là nhân dân Việt Bắc đang lưu
luyến chia tay. Câu hỏi tu từ
mình có nhớ ta thể hiện sự lưu luyến của người đi, kẻ ở.

+ Nhớ hoa là nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng làm đắm say lòng người. Nhớ người là nhớ
người dân Việt Bắc từng cưu mang, gắn bó, đồng cam cộng khổ với cán bộ cách mạng.

-      Bức tranh mùa đông:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

+ Hoa chuối rừng đỏ như son nổi bật trên nền xanh bạt ngàn của lá. Sự tương phản của hai màu
xanh, đỏ làm cho núi rừng bớt hoang vu, lạnh lẽo mà trở nên ấm áp hơn. Hoa chuối là bông
hoa có thật chứ không mông mênh chóng tàn như những loài hoa khác.

+ Vượt qua mùa đông lạnh giá, con người lên nương, lên rừng. Nghệ thuật đảo ngữ nắng ánh
(động từ) là các luồng sáng của nắng chói lên bởi sự phản quang của lưỡi dao rừng thắt trên
lưng người dân khi họ đi khai thác lâm, thổ sản. Đó là cái đẹp rất đời thường, rất giản dị của
người lao động.

-      Bức tranh mùa xuân:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

+ Hoa mơ tinh khôi, thanh khiết phủ trắng cả cánh rừng, gợi cảm giác choáng ngợp trước cảnh
thơ mộng. Âm điệu mạnh mẽ của hai chữ
trắng rừng bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc
của con người.

+ Hình ảnh người lao động chuốt từng sợi giang rất nhịp nhàng, khoan thai. Động từ “chuốt”
là làm cho thật nhẵn sợi giang để đan nón. Hai từ chuốttừng gợi tả đức tính cẩn thận, tỉ mỉ,
chịu thương chịu khó của người đan nón. Họ làm ra sản phẩm để phục vụ cho lao động và còn
để tặng cán bộ kháng chiến.

-      Bức tranh mùa hạ:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

+ Câu thơ sáu chữ xôn xao cả màu sắc lẫn âm thanh. Khi tiếng ve râm ran, cả một rừng phách
như hối hả, nhanh chóng thay màu, cùng đồng loạt
đổ vàng. Hai động từ kêuđổ thể hiện
không khí rạo rực rất đặc trưng của mùa hạ.
Đổ vàng là ngả vàng hàng loạt hoặc là cây trút lá
vàng.

+ Hình ảnh người lao động: Cô gái đi hái măng, khơi dậy trong ta những rung động ngọt ngào,
sâu lắng. Đọc câu thơ, ta nghe như có tiếng nhạc ngân nga bởi nghệ thuật gieo vần lưng
(gái,
hái)
vàđiệp phụ âm đầu m (măng, một, mình). Cô gái say sưa lao động trong một không gian
vui tươi, trong trẻo. Sự hiện diện của cô gái càng tăng thêm nét duyên dáng, trẻ trung cho bức
tranh mùa hạ.

-      Bức tranh mùa thu:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

+ Ánh trăng vàng êm dịu trải dài lên cảnh vật, gợi không khí thanh bình, yên ả. Từ hòa bình
vừa khẳng định cuộc sống êm đềm, vừa nói đến sự thanh tĩnh của rừng khuy. Đêm trăng thu
huyền ảo nơi núi rừng Việt Bắc thấp thoáng ước mơ thầm kính về cuộc sống thanh bình êm ả.
+ Trên cái nền gợi cảm ấy văng vẳng
tiếng hát ân tình thủy chung của ai đó nghe thật bâng
khuâng, xao xuyến. Tiếng hát ấy chính là tấm lòng của người Việt Bắc, dù nghèo khó nhưng
suốt đời thủy chung với cách mạng.

=> Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng
hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của
mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi
của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện
lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.

3.6.      Việt Bắc đánh giặc, Việt Bắc anh hùng

3.6.1.     Việt Bắc trong kháng chiến

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù,

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

-      Đại từ “ta” mang nghĩa “chúng ta” bao hàm cả người dân Việt Bắc và bộ đội, cán bộ kháng
chiến, thậm chí bao hàm cả con người - thiên nhiên và trời đất khi
“rừng cây núi đá ta cùng
đánh tây”,
khi “đất trời ta cả chiến khu một lòng”.

-      Nét nghĩa này vừa thể hiện sự đoàn kết gắn bó, vừa làm dày thêm tầm vóc sử thi cho hình
tượng nghệ thuật trong đoạn thơ.

-      Sự trùng điệp của ngôn từ đã tái hiện sinh động sự trùng điệp của địa hình rừng núi - hình ảnh
rừng núi
“giăng” kín trong các chủ ngữ của đoạn thơ từ “rừng cây núi đá” đến “núi giăng,
rừng che, rừng vây...”
tất cả lại được bao phủ trong “mênh mông bốn mặt sương mù” của trời
đất khiến người đọc cảm nhận được sự hiểm trở như thiên la địa võng của địa hình chiến khu
Việt Bắc.

-      Các vị ngữ “đánh, giăng, che, vây” đem đến sắc thái nhân hóa cho rừng núi, tạo cảm giác
như núi rừng cũng góp sức vào cuộc kháng chiến, núi rừng cùng con người tạo nên sức mạnh
to lớn, bền vững, ngăn chặn và vây hãm kẻ thù.

-      Nỗi nhớ hướng tới những địa danh lịch sử:

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà...

+ Những từ “nhớ” liên tiếp điệp lại trong câu thơ cho thấy nỗi nhớ hòa quyện với niềm phấn
khích như trào dâng trong dòng hoài niệm về những chiến thắng, Nhịp thơ dồn dập như mô tả
khí thế hào hùng của nhân dân ta trong những trận đánh, các chiến dịch và các chiến thắng
oanh liệt, liên tiếp, vang dội ngày kháng chiến. Hình thức xưa cũ của ca dao đã thể hiện những
chiến thắng hao hùng của chiến tranh nhân dân thời hiện đại.

3.6.2.     Việt Bắc ra trận

-      Đoạn thơ đã miêu tả cảnh quân và dân ta trong giai đoạn tổng phản công giành thắng lợi.
Những câu thơ lồng lộng, ngợp say tạo nên bản hùng ca về cuộc chiến đấu chống Pháp gian
khổ mà bất khuất của dân tộc:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung.

+ Khung cảnh sôi động của cuộc kháng chiến được miêu tả qua hình ảnh con đường; những
đường Việt Bắc của ta.
Cụm từ của ta thể hiện sự sở hữu cùng niềm tự hào dân tộc khi mỗi con
đường, ngọn núi, dòng sông... đã thực sự trở về với với người dân Việt Nam. Đây cũng là cảm
hứng chung từng xuất hiện trong bài
Đất nước của Nguyễn Đình Thi:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta.

+ Đối với Tố Hữu, con đường là biểu tượng cho sự hợp sức chung lòng, sự mở rộng, lớn mạnh
không ngừng. Lực lượng cách mạng từ trong những khó khăn trứng nước đã dần dần phát triển
cả về chất và lượng, để rồi ngày hôm nay hợp lại tạo thành một khối đông đảo. Hình ảnh so
sánh
Đêm đêm rầm rập như là đất nung cùng với từ láy tượng thanh rầm rập miêu tả tiếng
bước chân nhanh, mạnh, dứt khoát của một tập thể đông người, mỗi bước chân càng khiến trời
đất dung chuyển và cuộc hành quân ra trận đã biến thành cuộc diễu binh mà mỗi con người
trong đó như được nâng lên với tầm vóc vũ trụ. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
được thể hiện rõ nét.

-     Ở 4 dòng thơ tiếp theo, Tố Hữu đã tập trung miêu tả sức mạnh của hai đối tượng cụ thể nhưng
có đóng góp lớn làm lên chiến thắng
Việt Bắc hôm nay, đó là những anh bộ đội cụ Hồ và những
người dân công:

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

+ Từ láy điệp điệp, trùng trùng có tác dụng miêu tả những đoàn quân như nối tiếp nhau trải dài
không dứt, hết lớp này đến lớp khác. Họ không chỉ được miêu tả như tập thể đầy sức mạnh mà
còn hiện lên chân thực, lãng mạn qua hình ảnh
ánh sao đầu súng quen thuộc trong thơ ca thời
kì chống Pháp. Nó khiến người đọc nhớ đến câu thơ
đầu súng trăng treo trong bài thơ của
Chính Hữu. Hình ảnh thỏ của Tố Hữu có thể hiểu là ánh sao trời lấp lánh nơi đầu mũi súng,
cũng có thể hiểu là ánh sao gắn trên mũ của những người lính trên đường hành quân ra mặt
trận. Nếu hình ảnh thơ trong bài
Đồng chí của Chính Hữu nêu cao mục đích đấu tranh là để
bảo vệ hòa bình thì hình ảnh
ánh sao đầu súng tượng trưng cho lí tưởng của những người lính.
Từ
cùng đã nối cảm hứng lãng mạn với chất hiện thực của cuộc chiến khi con người vượt lên
khó khăn để sống và chiến đấu theo lý tưởng của mình. Trên con đường ra trận không chỉ có
những người lính mà còn có những đoàn dân công trực tiếp vận chuyển lương thực vũ khí ra
chiến trường:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.

+ Biện pháp đảo ngữ đỏ đuốc đã nhấn mạnh lực lượng đông đảo thứ hai và cũng là những người
quan trọng làm nên bản hùng ca cách mạng, đó là những đoàn dân công. Họ đi trong đêm, dưới
những bó đuốc đỏ rực, dưới những tàn lửa bập bùng bay theo chiều gió như trải dài không ngớt
tạo thành một không gian lung linh huyền ảo, mang âm hưởng huyền thoại. Cách nói thậm
xưng
bước chân nát đá khiến người đọc liên tưởng đến thành ngữ chân cứng đá mềm, đã nhấn
mạnh sức mạnh thể chất và tinh thần của những con người hàng ngày tải lương ra chiến trường,
chiến thắng mọi khó khăn gian khổ để góp phần làm nên chiến thắng. Dường như cả thiên
nhiên đất trời và con người cùng hòa chung một ý chí quyết tâm
Rừng cây núi đá ta cùng đánh
Tây.
Từ đó, Tố Hữu đã khái quát về thời khắc thiêng liêng của dân tộc:

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

+ Nghìn đêm là số từ chỉ ước lệ, miêu tả một quảng thời gian dài cả đất nước chìm trong màn
đêm tăm tối của xiềng xích và áp bức nhưng đó cũng chính là khoảng thời gian mà chúng ta
âm thầm chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến hào hùng. Và từ trong gian khổ, ánh bình minh
đã hé rạng, báo hiệu một ngày mới đang lên với niềm vui và sự hy vọng, lạc quan về một tương
lai tươi sáng. Cả đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: khi thì ánh sáng lấp lánh rực rỡ của ánh sao trời,
cũng là ẩn dụ cho lý tưởng cách mạng của người chiến sĩ, khi thì hàng ngàn vạn ánh đuốc đỏ
rực trong đêm... tất cả đã tạo nên một thứ ánh sáng khổng lồ soi tỏ màn đêm đen đang bao trùm.
Biện pháp so sánh tạo nên cảm hứng lạc quan tràn đầy hy vọng cho con người. Khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn được thể hiện ở niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng cho đất
nước.

- Bốn câu thơ cuối là những chiến thắng dồn dập trong giai đoạn tổng phản công:

Tin vui thắng trận trăm miền

Hòa bình Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Viết Bắc, đèo De, núi Hồng

+ Những dòng thơ này mang tính chất diễn ca lịch sử, ghi lại những địa danh, những trận đánh,
những chiến dịch lớn trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp như Hòa Bình,
Tây Bắc, Điện Biên... Nhịp thơ nhanh, dồn dập, sảng khoái, những từ “vui” điệp đi điệp lại
trong cả 4 dòng thơ cùng sự nối tiếp các cụm từ: “vui về”, “vui từ”, “vui lên”., những địa
danh liên tiếp hiện ra theo bước đi dồn dập của chiến thắng. Đó là những yếu tố ngôn từ đặc
sắc thể hiện sinh động không khí náo nức say mê của quân dân Việt Bắc trong ngày chiến
thắng.

=> Đoạn thơ đã rất thành công khi thể hiện niềm vui chiến thắng của quân và dân ta trong
những ngày kháng chiến chống thực dân pháp gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng. Thành công
ấy là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật thể hiện: thể thơ lục bát truyền thống; ngôn ngữ sử
thi hào hùng; hình ảnh thơ giàu sức sống; nhịp thơ dồn dập, nhiều điệp từ, điệp ngữ... tất cả
đã tạo nên một đoạn thơ hùng tráng về những ngày sục sôi đánh Pháp.

ĐẤT NƯỚC
NGUYỄN KHOA ĐIỀM

II. Nội dung

A. KHÁI NIỆM ĐẤT NƯỚC

1.      Nguồn gốc ra đời của Đất Nước

-       Đất nước ra đời từ rất lâu: Khi ta vừa lớn lên đã thấy dáng hình của đất nước. Đất nước đã
có từ thời xa xưa, từ thuở mới “khai thiên lập địa”.

-       Đất nước hình thành cùng với sự ra đời của văn học dân gian: Thuở còn thơ bé, mẹ thường
hay kể cho ta nghe những câu chuyện cổ tích đời xưa và thường được bắt đầu bằng câu
“ngày
xửa, ngày xưa...”.

-       Đất nước ra đời cùng với phong tục tập quán của dân tộc: Miếng trầu bà vẫn
hay ăn gợi một nếp sống đẹp của ông bà ta từ xưa đến nay-> tục ăn trầu.

-       Đất nước lớn lên cùng truyền thống yêu nước từ ngàn xưa: Người anh hùng làng Gióng
từng nhổ tre phá tan giặc Ân. Từ đó, tre trở thành vũ khí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, tre
là biểu tượng cho tinh thần kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam.

-       Đất nước hiện hữu trong tình nghĩa vợ chồng:

+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: Vẻ đẹp dịu dàng, đôn hậu của chân dung người phụ nữ Việt Nam.
+ Thành ngữ
“gừng cay muối mặn”: Cha mẹ thương nhau bằng tình yêu thủy chung son sắt,
bền vững như gừng mãi mãi cay, như muối muôn đời mặn.

-       Đất nước là hình ảnh văn hóa truyền thống của dân tộc:

+ Những cái kèo, cái cột làm bằng tre, gỗ là những bộ phận không thể thiếu để chống đỡ mái
nhà. Tuy đơn sơ, mộc mạc nhưng đó là tổ ấm vững chãi che nắng, che mưa cho biết bao đời
người dân lam lũ -> tục đặt tên con từ những vật thân quen, gần gũi, mộc mạc; cơ sở hình thành
ngôn ngữ Việt.

+ Hạt gạo là lương thực chính của người dân Việt gắn liền với nền văn hóa lúa nước lâu đời.

V     Thành ngữ “một nắng hai sương”: Người nông dân tảo tần, dầm sương dãi nắng để cấy
cày, chăm bón cây lúa trên đồng ruộng.

V     Liệt kê những công việc “xay, giã, giần, sàng.”: Những công đoạn phức tạp đòi hỏi
sự kiên trì, khéo léo để làm ra hạt gạo trắng ngần.

-> Truyền thống lao động cần cù của dân tộc; thái độ quí trọng hạt gạo.

-       “Đất nước ra đời từ ngày đó”: Vậy đất nước ra đời từ ngày cuộc sống con người bắt đầu phôi
thai hình thành và hoàn thiện dần theo năm tháng.

=> Đất nước Việt Nam ra đời từ thăm thẳm chiều sâu của một nền văn hóa dân gian, của
phong tục tập quán lâu đời.

2.      Đất Nước được cảm nhận qua không gian và thời gian lịch sử

-       Nhà thơ tách Đất Nước ra thành hai khái niệm, Đất và Nước, để có cái nhìn thật rõ ràng, cụ
thể về chiều rộng của không gian:

“Đất là nơi anh đến trường”

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

+ Đất: Là con đường đưa anh đến lớp học, nơi nuôi dưỡng tâm hồn anh, nơi cho anh những
kiến thức để trở thành một con người tốt đẹp trong một đất nước. Là nơi đất liền khô ráo bình
yên, để chim muông bay về làm tổ, để con người dựng lên mái nhà cư trú.

“Nước là nơi em tắm

“Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

+ Nước: Là nơi những dòng sông tắm mát kỉ niệm hồn nhiên, trong sáng của tuổi thơ em. Là
nơi những đàn cá bơi lội. Là nơi khởi nguồn của mọi sự sống.

-      Sau đó, nhà thơ lại kết hợp Đất Nước trong một thể thống nhất không thể tách rời đầy ý nghĩa
sâu sắc:

“Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

+ Đất Nướclà nơi biết bao đôi lứa yêu nhau hò hẹn, nơi đong đầy những kỉ niệm dịu ngọt của
tình
yêu.Đất Nướccũng là nơi chứa chan những nỗi nhớ thương người yêu khắc khoải của người
con gái thầm trao gửi bằng chiếc khăn tay.

“Thời gian đằng đẳng

Không gian mênh mông

Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”

+ Từ láy: “đằng đẳng”, “mênh mông”thể hiện ĐN đã trãi qua thời gian rất dài với biết bao
thăng trầm, biến cố mới có một lãnh thổ rộng lớn với núi sông, đồng bằng, biển cả; để dân ta
đoàn tụ làm ăn, sinh sống.

“Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ đồng bào ta trong bọc trứng”

+ Dân tộc ta ra đời từ truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” trên ĐN đậm chất huyền thoại:
Chim là nàng Âu Cơ ở chốn non cao, Rồng là Lạc Long Quân ở vùng nươc thẳm. Họ kết thành
vợ chồng và sinh ra bọc trăm trứng, nở ra thành trăm con. Dân tộc ta mang dòng máu Rồng
Tiên vô cùng cao quý.

-       Điệp ngữ “nhữngai”: Nhấn mạnh ĐN không chỉ là của thế hệ hiện tại mà còn là của bao thế
hệ đã đi qua. Những con người sống trên một ĐN đều có ý thức duy trì nòi giống bằng tình yêu
đôi lứa. Người đi sau gánh vác phần việc để lại của người đi trước và truyền đạt lại cho thế hệ
mai sau.

-       Giỗ tổ: Ngày mùng mười tháng ba là ngày giỗ các vị vua Hùng đã có công dựng nước. Người
Việt Nam hàng năm dù ở bất cứ nơi đâu cũng nhớ đến ngày quốc lễ này.

Đất Nước ra đời với thời gian lịch sử lâu đời vô cùng thiêng liêng, với không gian vô cùng
hùng vĩ, tươi đẹp.

3.      Đất Nước được cảm nhận qua trách nhiệm của chúng ta

-       Bản thân mỗi chúng ta là một phần của ĐN, là hình ảnh của ĐN. Mỗi một con người góp phần
tạo hình nên ĐN. Vì vậy số phận của mỗi con người cũng là vận mệnh chung của ĐN.

-       “Khi hai đứa cầm tay”, “Khi chúng ta cầm tay”: Ân dụ cho tinh thần đoàn kết của mọi người
dân trong nước. Đoàn kết sẽ đem lại sức mạnh xây dựng ĐN giàu đẹp, bảo vệ ĐN mãi mãi
trường tồn.

-       Chúng ta phải kì vọng, đặt niềm tin vào thế hệ con cháu. Chúng sẽ lớn lên, sẽ kế thừa và phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thế hệ tương lai sẽ đưa ĐN lên những tầm cao mới.

-       “Em ơi em”: Lời kêu gọi vô cùng thiết tha đến thế hệ trẻ, phải ý thức ĐN chính là máu xương
của mình.

-       Điệp ngữ “phải biết”: Nhấn mạnh, để ĐN tồn tại muôn đời, chúng ta phải:

+ “gắn bó và san sẻ”: Yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn.

+ “hóa thân cho dáng hình xứ sở”: Giữ gìn hình ảnh đẹp cho ĐN. Khi ĐN lâm nguy thì sẳn
sàng hi sinh vì ĐN.

> Đất Nước tồn tại thiêng liêng trong bổn phận, trách nhiệm và trong trái tim của mỗi chúng
ta. Đất Nước là những gì hết sức giản dị, đơn sơ; rất gần gũi và thân thuộc với cuộc sống của
mỗi con người. Đất Nước hiện hữu ngay trong chính bản thân chúng ta.

B. ĐẤT NƯỚC CỦA NHÂN DÂN

1.     Nhân dân làm nên hình ảnh Đất Nước

-      Núi Vọng Phuở Lạng Sơn mang dáng hình của nàng Tô Thị ngày ngày bồng con ngóng đợi
chồng về trong nỗi niềm khắc khoải, sầu muộn mà hóa đá.

-      Hòn TrốngMáilà hai tảng đá giống hình trống, mái nằm ven biển Sầm Sơn. Dáng hình của đá
được gắn với truyền thuyết về một mốt tình đẹp của một đôi trai gái, nghịch cảnh khiến họ
không đến được với nhau nên đã chết cùng nhau

-      Những ao, đầmngày nay, gợi cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng. Khi người anh hùng
làng Gióng cưỡi ngựa sắt xông ra trận đánh giặc
Ân thì những gót chân ngựa in hằn trên mặt
đất tạo thành những ao, đầm.

-      Đền thờ các vua Hùng tọa lạc uy nghiêm ở núi Hi Cương. Những đồi núi trập trùng bao quanh
đàn voi chín mươi chín conquay quần chầu phục đất Tổ.

-      Trên khắp đất nước ta, đâu đâu cũng có những dòng sông xanh thẳm chở nặng phù sa tướt mát
ruộng vườn. Dân gian quan niệm rồng phun nước nên đã lấy tên rồng đặt cho nhiều dòng sông,
như:
sông Cửu Long, sông Long Bình, sông Long Hồ)...

-      Ở Quảng Ngãi có ngọn núi mang hình cây bút và nghiên mực. Người học trò nghèo ngày xưa
mài mực trong nghiên đá và dùng bút lông ngỗng chấm mực viết chữ.
Núi Bút non Nghiênthể
hiện truyền thống hiếu học với khát vọng tạo lập công danh của người xưa.

-      Vịnh Hạ Longlà kì quan thiên nhiên ở Quảng Ninh. Vẻ đẹp tuyệt diệu này là sự kết hợp độc
đáo giữa một vịnh biển lặng sóng, nước trong xanh với hơn hai ngàn núi đá vôi nằm rải rác.
Những khối núi xinh xắn ấy mang dáng hình
những con cóc, con gàrất đỗi thân quen trong cuộc
sống.

-      Liệt kê:Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. là tên những người đãcó công khai phá,
xây dựng và bảo vệ những vùng đất. Thế hệ con cháu đã dùng tên của họ đặt tên cho đất để ghi
khắc công ơn.

-      Còn rất nhiều vùng miền trên đất nước mà dấu ấn của nhân dân đều in đậm. Tên của những
vùng đất đó gắn với dáng hình, ao ước, lối sống của ông cha ta.

-      Thán từ “ôi ” thốt lên mang đầy cảm xúc tự hào của nhà thơ về ĐN. Trãi qua 4000 năm lịch sử
dựng nước và giữ nước để rồi đi đâu ta cũng thấy hình ảnh của nhân dân.

->Đất Nước mang đậm dấu ấn của nhân dân. Nhân dân chính là người nghệ nhân tinh xảo
chạm trỗ nên hình hài Đất Nước.

2.     Nhân Dân giữ gìn và bảo vệ đất nước

-      Câu cảm thán “Em ơi em’”: Lời kêu gọi đầy thiết tha của nhà thơ hướng đến thế hệ thanh niên.
Hãy nhìn lại lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, hãy tự hào về một đất nước cótruyền thống
yêu nước nồng nàn.

-      Điệp ngữ “người người”, “lớp lớp”:Sở dĩ ĐN vững bền bao đời nay đều nhờ vào công sức
của những người con gái, con trai. Họ là nguồn nhân lực chính để xây dựng ĐN, cần cù làm
lụng, lao động sản xuất làm giàu cho đất nước.

-      Khi đất nước lâm nguy, thanh niên ra sức cống hiến bản thân mình cho tổ quốc. Người con
trai cầm súng ra trận, người con gái ở hậu phương vừa nuôi con vừa đánh giặc.

-       Điệp từ “nhiều”:khẳng định lịch sử đánh giặc cứu nước của dân tộc đã để lại những trang sử
vẻ vang với rất nhiều tên tuổi anh hùng làm rạng danh đất nước. Như: Ngô Quyền, Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, ...

-      Bên cạnh những anh hùng mà chúng ta biết và nhớ đến tên thì còn có rất nhiều người con gái,
con trai ngã xuống vì đất nước này mà chúng ta không thể
“nhớ mặt đặt tên ”. Họ đã sống giản
dị (hiền lành, lặng lẽ), đón nhận cái chết bình tâm (tự nguyện, chấp nhận hi sinh ). Vì vậy mà
đất nước có rất nhiều anh hùng vô danh.

->Đất Nước sẽ không tồn tại nếu không có nhân dân. Nhân dân chính là chủ nhân của ĐN, họ
luôn đề cao ý thức bảo vệ ĐN trước kẻ thù xâm lược.

3.      Nhân Dân xây dựng đất nước

-      Điệp từ “họ”: Nhấn mạnh vai trò vô cùng quan trọng của nhân dân trong việc dựng xây ĐN.

-       Nền văn hóa lúa nước ra đời từ thuở xa xưa, được nhân dân giữ gìn và lưu truyền đến tận hôm
nay. Hạt lúa là nguồn lương thực chính của dân tộc ta.

-Ngọn lửa dùng để sưởi ấm, nấu chín thức ăn, phương tiện lao động. được nhân dân phát hiện
và gìn giữ từ hòn than vùi trong tro nóng đến con cúi bện rơm.

-       Nhân dân tập cho con nói ngôn ngữ tiếng Việt, giọng điệu của từng vùng miền được truyền
từ đời này sang đời khác như một bản sắc văn hóa được tôn trọng một cách thiêng liêng.

-      Họ đặt tên làng, tên xã ở những nơi cư ngụ như là một cách khẳng định sự hiện hữu cố định
để đánh dấu lãnh thổ.

-       Ân dụ trong câu “Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái ”: Họ đã tạo dựng một
nền tảng ĐN vô cùng vững chắc để thế hệ con cháu kế thừa và phát triển ĐN.

- Nhân dân bảo vệ ĐN trong bất cứ hoàn cảnh nào.

+ Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Từ khi dựng nước cho đến nay, nhân dân ta đã đánh đuổi
rất nhiều kẻ thù xâm lược: Giặc Tống, giặc Nguyên Mông, giặc Minh, giặc Thanh, thực dân
Pháp, đế quốc Mĩ .

+ ĐN có nội thù thì nhân dân cũng tự mình đứng lên đánh bại các phe phái, đảng nhóm để thống
nhất đất nước.

-       Vì vậy ĐN này là của nhân dân. Một ĐN ra đời từ ca dao, thần thoại. Nhân dân ta đã viết nên
trang sử huyền thoại về công cuộc xây dựng và bảo vệ ĐN.

>       Hạt gạo, ngọn lửa, giọng nói, tên làng xã, bảo vệ ĐN... là những yếu tố căn bản làm nên
cuộc sống để từ đó dựng xây ĐN. Nhân dân đã tạo ra, giữ gìn và lưu truyền những giá trị văn
hóa quý giá đó từ đời này sang đời khác.

4.      Nhân dân truyền tải truyền thống đạo đức của dân tộc

* Nhờ có ĐN mà chúng ta trưởng thành, lớn lên một cách tốt đẹp:

-      Chúng ta biết sống để yêu thương mọi người. Lòng nhân ái là phẩm chất vô cùng tốt đẹp của
con người, nó là sợi dây thắt chặt tình đoàn kết dân tộc.

-       Chúng ta biết trân trọng công sức lao động. Siêng năng lao động sẽ giúp ta khẳng định giá trị
bản thân và góp phần xây dựng ĐN giàu đẹp.

-       Chúng ta biết kiên trì, nhẫn nại trong công việc. Thất bại hôm nay không khiến ta nản lòng.
Ngược lại, thất bại sẽ thôi thúc ta tìm mọi cách để vươn đến thành công.

-       Thán từ “ôi ”: Tràn ngập niềm tự hào của nhà thơ khi nhận ra, ĐN là một dòng sông văn hóa,
lịch sử vô cùng đặc sắc.Và nhân dân chính là những người chèo đò tài ba, dũng cảm trên dòng
sông ấy.Nhân dân sẽ làm cho dòng sông- ĐN luôn cuộn chảy mạnh mẽ và đẹp mãi ngàn đời.

>       Tác giả vận dụng ca dao một cách nhuần nhị, hình ảnh ẩn dụ độc đáo để ca ngợi vẻ đẹp tâm
hồn con người Việt Nam

=>Đất Nước là kết tinh của bao công sức và khát vọng của Nhân Dân, của những con người
bình thường, vô danh

Bài 6 : SÓNG

(Xuân Quỳnh)

I. TÌM HIỂU CHUNG

1.      Tác giả

-       Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời
kì chống Mỹ.

-       Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng
về hạnh phúc đời thường.

2.      Xuất xứ

-      Bài thơ “Sóng” in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”.

3.      Hoàn cảnh sáng tác

-      Bài thơ được viết vào năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình).

II. ĐỌC, HIỂU VĂN BẢN

1. Khổ 1

“Dữ dội và dịu êm

Sóng tìm ra tận bể ”

-Trạng thái của sóng: Những cặp tính từ đối nhau: Dữ dội- dịu êm, ồn ào- lặng lẽ.

+Khi trời êm bể lặng, những con sóng dịu dàng, êm đềm, nhẹ nhàng vỗ vào bờ cát. Sóng trữ
tình như một bản tình ca ngọt ngào, êm ái.

+Khi bão tố phong ba, những con sóng ấy trở nên cuồng nộ, dữ dội, gào thét, giận dữ với đất
trời.

Trạng thái tự nhiên của sóng là phức tạp, đa chiều, biến đổi, đa tính cách.

-Trạng thái của tình yêu:

+Khi yêu nhau, có lúc tình yêu nhẹ nhàng, sâu lắng với cảm xúc thật đằm thắm, ngọt ngào.
Cũng có khi tình yêu trở nên sôi nổi, mãnh liệt với cảm giác nồng nàn, say đắm.

+Hành trình yêu là sự nếm trãi những cung đường tràn ngập cảm xúc chất ngất: Có lúc bình
yên với niềm tin tưởng bền chặt tràn đầy hạnh phúc, niềm vui. Có khi trắc trở, chông gai khiến
trái tim đau đớn, tuyệt vọng đến bật thành tiếng khóc khổ đau.

^Trạng thái tự nhiên của tình yêu cũng phức tạp, đa chiều, đa diện như sóng biển.

-      Quan điểm về tình yêu:

+Những dòng sông nhỏ hẹp không thể có được những con sóng thật sự. Sóng trên sông chỉ là
những con sóng nhỏ bé khẽ gợn nhấp nhô, chỉ đủ sức chở nỗi

buồn không bờ bến, gợi một tính cách hiền lành, nhẫn nhịn, cam chịu kiếp quẩn quanh.

+ Vì vậy sóng phải tìm ra tận bể khơi mênh mông. Nơi đó, sóng được là chính mình, sống đúng
cuộc đời của mình, đúng với tính cách của mình: đa chiều, phức tạp.

+Ân dụ trong hình ảnh dòng sông, con sóng: Tình yêu đúng nghĩa không chấp nhận sự tù túng,
áp đặt; không có sự gượng ép, miễn cưỡng. Tình yêu thật sự phải là sự chủ động, tự do đi tìm
hạnh phúc đích thực.

Nhân hóa “sông không hiểu”, “sóng tìm ra” thể hiện quy luật của sóng cũng như là quy
luật tình yêu.

Nhà thơ đã bày tỏ sự cảm nhận tinh tế về tình yêu và quan điểm trong tình yêu hết sức mới
mẻ, táo bạo, quyết liệt.

2.      Khổ 2

“ Ôi con sóng ngày xưa

Bồi hồi trong ngực trẻ.”

-Thán từ “ôi”: Bộc lộ cảm xúc thiết tha, nồng nàn từ trái tim đầy khát vọng yêu thương của nhà
thơ khi nhận ra quy luật muôn đời của sóng, của tình yêu.

+ Ngày xưa-ngày nay-ngày sau: Sóng vẫn thế, vẫn luôn ở trạng thái vốn có của nó: Lúc dữ dội,
ồn ào khi dịu êm, lặng lẽ. Đó là quy luật vĩnh cửu của tự nhiên.

+ Ngày xưa- ngày nay- ngày sau: Tình yêu cũng vẫn thế, cũng có lúc sôi nổi, mãnh liệt; cũng
có khi dịu êm, lặng lẽ. Đó cũng là quy luật muôn thuở của tình yêu.

N Nếu ngày xưa:

“ Yêu nhau mấy núi cũng leo

Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.

(Ca dao)

•Y Thì ngày nay:

“ Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt đời thường ai chẳng có

Van ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.”

(Tự hát, Xuân Quỳnh)

-      Khát vọng tình yêu:

+Tình yêu là một trạng thái tình cảm vô cùng thiêng liêng của con người. Tình yêu sẽ khiến
cuộc sống con người tràn đầy ý nghĩa. Đó là một khát vọng chính đáng của con người. Vì vậy
mà Xuân Diệu từng khẳng định:

“ Có ai sống được mà không yêu

Không nhớ, không thương một kẻ nào”

+Đặc biệt, tình yêu sẽ càng rạo rực, thổn thức hơn trong trái tim của tuổi trẻ. Đó là những trãi
nghiệm vô cùng đáng nhớ của những năm tháng tràn trề nhựa sống, sức xuân: bối rối, ngại
ngần, nhớ nhung, hờn giận, khát khao, khổ đau, hạnh phúc...Đó chính là quy luật vĩnh hằng
của tình yêu.

Tình yêu mãi mãi là niềm khao khát tốt đẹp của con người. Nhà thơ mượn sự tồn tại vĩnh
viễn của sóng biển để khẳng dịnh sự tồn tại bất diệt của tình yêu.

3.      Khổ 3,4

“ Trước muôn trùng sóng biển

Khi nào ta yêu nhau.”

-       Đứng trước muôn trùng con sóng biển, tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ đã liên tưởng đến tình
yêu. Xuân Quỳnh đã phát hiện ra điều thú vị về khởi nguồn của sóng và khởi nguồn của tình
yêu rất giống nhau.

-Sóng bắt đầu từ gió. Nhưng gió bắt đầu từ đâu? Nếu phải lí giải đến tận cùng thì là điều không
thể. Bởi tự nhiên là vô cùng vô hạn, là chứa đựng những bí mật muôn đời.

-Nhà thơ nghĩ đến “anh” và “em”, khi nào ta yêu nhau? Yêu là cảm xúc có thể cảm nhận được,
thấm thía được nhưng để phân tích một cách cụ thể thì lại rất mông lung. Như Xuân Diệu viết:

“Ai đem phân chất một mùi hương

Hay bản cầm ca tôi vẫn thương

Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc

Như thuyền ngư phủ lạc trong sương.”

(Vì Sao)

-> Cho nên không thể xác định khi nào tâm hồn thuộc về nhau. Tình yêu là sự rung động của
trái tim thì chỉ có thể cảm nhận bằng chính trái tim mà thôi.

Những câu hỏi tu từ đặt ra liên tiếp trong khổ thơ như bộc lộ niềm trăn trở của nhà thơ về
tình yêu. Những băn khoăn, day dứt muốn đi tìm và lí giải đến tận cùng về những bí ẩn của tình
yêu. Cách bộc bạch, thổ lộ của nhà thơ vô cùng chân thành, ngay thật.

4.      Khổ 5,6

“ Con sóng dưới lòng sâu

Hướng về anh- một phương”.

-Nỗi nhớ của sóng:

+Trên đại dương bao la có những con sóng âm thầm cuộn chảy dưới lòng sâu và có cả những
con sóng dạt dào trên mặt nước. Dù ở nơi nào thì tất cả những con sóng ấy chỉ có một hướng
đến, đó là vỗ vào bờ.

+Thán từ “ôi” thể hiện cảm xúc tha thiết nhớ nhung bờ của sóng. Nỗi nhớ bờ khiến cho sóng
không ngủ được, ngày đêm rạt rào bến bờ yêu thương.

Nhân hóa sóng “ không ngủ được ”, “ nhớ bờ” diễn tả nỗi nhớ vô cùng nồng nàn, da diết.
-Nỗi nhớ của em:

+ Em đã bày tỏ một cách thành thật, cảm động về tình yêu của em dành cho anh. Nỗi nhớ anh
trong em cũng như sóng biển cồn cào, tha thiết. Càng mãnh liệt hơn khi nỗi nhớ ấy chiếm lĩnh
tâm trí em cả ngày lẫn đêm, ngay cả trong giấc ngủ thì nỗi nhớ anh theo em cả vào trong những
giấc mơ.

+ Dù em ở bất cứ nơi nào, dù ở phương Bắc hay ở phương Nam, dù có xa cách anh như thế
nào, không gian ở đâu không quan trọng nữa, bởi em chỉ nghĩ đến anh và chỉ có một mình anh
duy nhất.

Các cặp từ đối nhau “ dẫu xuôi-dẫu ngược ”, “ phương Bắc- phương Nam”, số từ “ một”
đã khẳng định nỗi nhớ tình yêu của em bao trùm cả thời gian, bất chấp cả không gian. Và đó
chính là bản chất của tình yêu: say đắm, thủy chung.

'N Với tất cả niềm say mê tình yêu, nhà thơ đã bày tỏ một nỗi nhớ người yêu thật nồng cháy
yêu thương, một tình yêu thủy chung son sắt.

5.      Khổ 7

“ Ở ngoài kia đại dương

Dù muôn vời cách trở”

-Sóng trên đại dương:

+ Đại dương chở hàng trăm hàng ngàn con sóng. Sóng ở xa khơi, sóng đến gần bờ; sóng lớn
phong ba, sóng hiền hòa êm dịu. Tất cả những con sóng ấy đều phải vượt muôn trùng hải lí,
muôn vàn cách trở để vào được tới bờ.

+ Như một quy luật không có sự ngoại lệ, tất cả những con sóng trên đại dương đều chấp nhận
một vòng đời mà phải miệt mài thực hiện chuyến hành trình gian nan để vào bờ, bằng mọi giá
phải chạm đến bờ.

-Ẩn dụ tình yêu:

+ Trên cõi đời này ai cũng có tình yêu cho riêng mình. Tình yêu muôn hình vạn trạng, tình yêu
ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhưng tình yêu thường không suôn sẻ, sẽ có
những khó khăn trắc trở nảy sinh buộc những người yêu nhau phải nỗ lực vượt qua để bảo vệ
tình yêu của mình, để đạt được hạnh phúc trong cuộc đời mình.

+Niềm hạnh phúc trong tình yêu đó là được ở bên cạnh, được gắn bó, sẻ chia mọi khoảnh khắc
của cuộc sống cùng với người mình yêu thương. Hạnh phúc là bến đỗ của tình yêu và hành
trình đi tìm hạnh phúc thì lắm khó khăn, thử thách.

Ẩn dụ một cách sâu sắc về sự tương đõng giữa cuộc đời song và tình yen. nhà thơ đã nhận
ra chân lí muôn đời: Giá trị đích thực của sóng là tìm được đến bờ. giá trị đích thực của tình
yêu là tìm được hạnh phúc.

6.     Khổ 8,9

“Cuộc đời tuy dài thế

Để ngàn năm còn vỗ”.

-Đời người:

+Cuộc đời của con người tuy là dài thật, tuổi thọ có thể kéo dài cả trăm năm hoặc hơn thế nữa
nhưng làm sao có thể bất tử. Dù có cố gắng mấy thì đến một lúc nào đó cũng phải kết thúc cuộc
đời, tuân theo quy luật
“sinh. lão. bệnh. tử”.

+ Theo đó tình yêu cũng vậy. Dù yêu mãnh liệt đến mức nào thì khi nào trái tim ngừng đập thì
cảm xúc yêu thương cũng phải ngừng lại.

Nhà thơ cay đắng. chua xót khi biết chắc một điều là đời người hữu hạn.

-Tự nhiên:

+ Năm tháng cứ vô tư trôi qua mãi miết không chờ đợi hay thiên vị một ai.

+ Biển khơi muôn đời suốt kiếp vẫn cứ rộng mênh mông, bát ngát.

+ Mây trời vẫn cứ đủng đỉnh bay về nơi xa xôi lặng lẽ, mặc kệ những đa đoan, khổ sở của thế
gian.

Điệp từ “ vẫn”. liệt kê “ năm tháng. biển. mây ” nhấn mạnh quy luật của tự nhiên là vô hạn.
Nhà thơ như có chút thầm ghen. thầm tiếc cho giới hạn của đời người với sự vĩnh cửu của tự
nhiên.

-Khát vọng của nhà thơ:

+ Câu hỏi tu từ “Làm sao được tan ra”: Thể hiện niềm khao khát được hóa thân thành trăm
con sóng nhỏ. Niềm ao ước ấy như thiêu đốt tâm can, dâng trào mãnh liệt và bật lên thành
những lời tha thiết.

+ Nhà thơ muốn được như sóng biển kia muôn đời sống giữa biển lớn, muôn đời được vỗ mãi
bến bờ yêu thương.

Đây là là khát vọng đầy táo bạo của nhà thơ. khát vọng được bất tử như sóng biển. được
yêu mãi mãi muôn đời.

'N Đoạn thơ là những lời tự sự đậm chất triết lí. nhà thơ đã bày tỏ khao khát yêu đương muốn
vượt lên trên giới hạn của đời người để sống mãi trong tình yêu.

NGƯỜ LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
NGUYỄN TUÂN

II. Nội dung

1. Hình tượng con Sông Đà

1.1.      Lai lịch

-       Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), chảy theo hướng tây bắc - đông nam “đi
qua một vung núi ác đến gần nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam”.

-      Sông Đà chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú
Thọ, có tổng cộng 73 con thác dữ và dài 883 km.

1.2.      Tính cách: vừa hung bạo vừa trữ tình

a.      Tính hung bạo:con sông Đà hiện lên như mụ dì ghẻ, một thứ kẻ thù số một của con người.

-       Hướng chảy: độc đáo, ngang ngược, chảy theo hướng Bắc:

“Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu” (Mọi con sông đều chảy theo hướng đông,
chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc
- Thơ Nguyễn Quang Bích)

-         Đá sông Đà:

+ Vách đá bờ sông “dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông
hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo nhiều cách
“Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới
có mặt trời”, "con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn
đá từ bờ bên này qua bên kia vách”, “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ
nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”

-> Cách so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Thủ pháp miêu tả bằng cảm
giác gợi cho người đọc hình dung ra cảnh tượng đá bờ sông ghê rợn, hiểm trở nhưng không
kém phần hùng vĩ.

+ Đá ở lòng sông:

V       Đá được mai phục hàng ngàn năm, trắng xóa cả chân trời đá, mặt hòn nào trông cũng

“ngỗ ngược ”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, đứng, nằm, ngồi tùy theo sở thích.

V       Bày thành thạch trận (trận địa bằng đá): xếp thành từng tuyến, đám đá tảng đá hòn chia
làm ba hàng trên sông tạo thành ba trùng vi thạch trận ít cửa sinh, nhiều cửa tử, biết dụ,
biết khiêu khích, giở những ngón đòn hiểm hóc, phối hợp với sóng thác để tiêu diệt con
người.

-> Bằng thủ pháp nhân hóa, phóng đại, kết hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực, đá không còn là
những vật vô tri vô giác mà hiện lên hêt sức sống động, có hồn, tô đậm cái dữ dội, hiểm trở của
sông Đà. Cuộc thủy chiến của người lái đò và sông Đà ở thạch trận này càng làm nổi bật tính
hung bạo của con sông và tài nghệ của con người lao động.

-         Nước sông Đà: cái hút nước

+ Những cái hút nước sâu ghê rợn như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu, mặt hút xoáy tít đáy, quay lừ lừ như cánh quạ đàn

+ Âm thanh: vừa thở vừa kêu như cửa cống cái bị sặc, lúc thì ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào, chực chờ nuốt chửng mọi con thuyền. Có những thuyền đi qua bị nó hút tụt xuống, thuyền
trồng ngay cây chuối ngược, bị dìm, rồi vụt biến đi đến mười phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới.

+ Phép so sánh, nhân hóa, phóng đại được sử dụng triệt để và linh hoạt gợi ra hình ảnh những
cái hút nước hết sức nguy hiểm.

-      Ghềnh và thác sông Đà:

+ Quãng ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm ...”
Bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc
xích, cấu trúc câu trùng điệp, giàu hình ảnh, gợi ra con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào
cũng muốn tiêu diệt con người.

+ Dữ dội nhất là những thác đá. Tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi như van xin, rồi lại
như
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng.

-      Bằng những hiểu biết sâu rộng, kết hợp nhiều kiến thức mượn ở các ngành, các bộ môn trong
và ngoài nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà hung bạo nổi bật lên như một biểu
tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc. Con sông Đà đã
hàng
năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội
vạ với người lái đò sông Đà.
Từ đó, ta thấy được sự lao động nghiêm túc, cần cù của người
nghệ sĩ và niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp.

b.     Tính trữ tình.

-      Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông
đá”
mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người.

-      Dáng hình: Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo ...”

-       Màu nước: sắc nước dòng sông thay đổi theo mùa. Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng,
gợi cảm và nên thơ:

+ “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”.

+ Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa ..

-       Cảnh bờ sông:

+ Vắng lặng, hoang sơ: Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt:
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa...
lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê ”. Hình ảnh so sánh giàu tính biểu cảm gợi ra vẻ thơ mộng,
tĩnh lặng của sông Đà.

+Trù phú, màu mỡ: Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên
bờ tràn trề sức sống
: nương ngô nhú lên những nõn búp, bầy hươu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương, cá dầm xanh quẫy nước,.

-       Tình cảm của tác giả: gắn bó, yêu mến, xa thấy nhớ, gặp lại thì vui mừng như nối lại chiêm
bao đứt quãng.

=>Dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên thật sinh động với
hai tính cách hung bạo và trữ tình “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng, thác
lũ ngay đấy ”. Ẩn đằng sau những câu chữ là niềm tự hào của nhà văn về đất nước giàu đẹp.
Đây cũng chính là cách để tôn vinh, ca ngợi con người vì chính nơi đầu sóng ngọn gió ác liệt
ấy, con người lao động đã chinh phục vá chế ngự thiên nhiên để ngày nay sông Đà trở thành
nguồn tài nguyên cho đất nước.

2.     Hình tượng người lái đò Sông Đà

2.1.     Lai lịch, ngoại hình

-       Quê ở ngã tư sông sát tỉnh Lai Châu, gần bảy mươi tuổi, có kinh nghiệm làm nghề chở đò dọc
sông Đà và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da
trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh
pháp thần Sông, thần Đá.

-       “Thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tiếng nói ào ào như sông nước ”, nhỡn
giới ông cao vòi vọi, “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò”, “hai chân khuỳnh khuỳnh như
đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng,
trên ngực của ông nổi lên một số “củ nâu”
thương tích trên “chiến trường Sông Đà”.

2.2.      Phẩm chất, vẻ đẹp

a.      Sự từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc sông Đà.

-       Trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách “lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng
tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.

-       Sông Đà, đối với ông lái đò, như “một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả
những cái chấm than, chấm câu và những đọan xuống dòng”

-        Chính vì vậy “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc qui luật
phục kích của lũ đá”

-> Một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.

b.      Sự thông minh, dũng cảm như một viên tướng tài ba, như một nghệ sĩ trong nghệ thuật
vượt thác sông Đà.

*      Trùng vi thạch trận thứ nhất:

-       Ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: thạch trận dàn bày vừa xong thì
cái thuyền vụt tới

-      Thạch trận có năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn.

-       Những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt được nước thác reo hò làm thanh viện, chúng liều
mạng xông vào mà
đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền, ...có lúc chúng đội cả thuyền
lên.

- Ông lái đò vẫn bình tĩnh hai tay giữ chặt mái chèo. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh
miếng đòn hiểm nhất
bóp chặt lấy hạ bộ đau điếng nhưng ông đò vẫn hai chân vẫn kẹp lấy
cuống lái,
mặt méo bệch vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa
con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.

-> Ông lái đò lão luyện, bình tĩnh, có sức chịu đựng phi thường.

*      Trùng vi thạch trận thứ hai:

-       Sông Đà lại bố trí nhiều cửa tử hơn, cửa sinh lệch sang phía bờ hữu ngạn nhằm đánh lừa con
thuyền.

-       Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá

-       Ông lái đò “nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi”, cho con thuyền “phóng nhanh vào
cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”.
Bọn tướng đá, đứa thì “ông tránh mà
rảo bơi chèo lên”,
đứa thì bị “ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”.

-      Cuối cùng, bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt tiu nghỉu, xanh lè thất vọng.

-> Ông lái đò nhiều kinh nghiệm, có hành động chuẩn xác, mau lẹ, quyết đoán.

*      Trùng vi thạch trận thứ ba:

-      Bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh nằm giữa bọn đá hậu vệ của con thác.

-       Ông lái đò mưu trí phóng thẳng con thuyền, chọc thủng trùng vây rồi vút qua cổng đá cánh
mở cánh khép. Chiếc thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự
động lái được lượn được. Thế là hết thác.

-> Nghệ thuật chèo thuyền lái đò vượt thác đạt đến trình độ điêu luyện, nghệ thuật chèo đò,
ông lái đò là một nghệ sĩ sông nước, tay lái ra hoa.Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm
liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng.

-       Nghệ thuật: Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo
thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân hóa, cường điệu,
... câu văn trùng điệp tạo ra một bức tranh hòanh tráng. Nhà văn đã dụng tâm diễn tả cuộc chiến
giữa ông lái đò với dòng sông theo hướng thọat đầu tưởng như không cân sức. Nhưng cuối cùng
phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự thông minh và dũng cảm. Cuộc vượt thác thật ngoạn
mục, ông lái đò thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa.

c.      Sự khiêm nhường, bình dị, phong thái ung dung mang cốt cách nghệ sĩ.

-      Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống của
ông.

-      Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ sông nước lại thanh bình.

-       Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và tòan bàn về cá anh vũ, cá dầm
xanh, ... chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua.

-> Sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vìngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những
cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ.

-> Cái phi thường đã trở thành bình thường, phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái
tài tử, nghệ sĩ

=> Người lái đò sông Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa có tư thế của một người lao động
trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa như “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của
Tây Bắc. Hình tượng người lái đò thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở
giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám: người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên
với chất tài hoa, nghệ sĩ - biểu tượng cho con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất
nước.

Bài 8 :AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?

(Hoàng Phủ Ngọc Tường)

1. Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương:

1.1.      Sông Hương ở thượng nguồn:

-      Giữa lòng Trường Sơn: Sông Hương được ví như:

+ “Bản trường ca của rừng già”:

V       Rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy qua đại ngàn, qua ghềnh thác.

V       Dịu dàng, say đắm qua những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.

+ Một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại:

V       Bản lĩnh gan dạ.

V       Tâm hồn tự do, trong sáng

-> Câu văn mượt mà, nghệ thuật liên tưởng độc đáo, phép nhân hóa, so sánh, nhiều động từ,
tính từ gợi cảm.

-> Tô đậm vẻ đẹp hoang dã, mạnh mẽ, đầy cá tính, có sức sống mãnh liệt nhưng cũng dịu dàng
và say đắm của sông Hương ở thượng nguồn.

-      Ra khỏi rừng già: Sông Hương trở thành: “Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”:

+ Rừng già đã “chế ngự sức mạnh bản năng”.

+ Mang sắc đẹp “dịu dàng và trí tuệ ”

-> Hình ảnh ẩn dụ: sông Hương là ngọn nguồn cho cảm hứng nghệ thuật, văn hóa của người
Huế nói riêng, người Việt Nam nói chung.

=>Sơ kết: Bằng sự quan sát tinh tế, trí tưởng phong phú; với nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài
hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện, khắc hoạ vẻ đẹp trẻ trung, hoang dại, đầy
cá tính của sông Hương. Đó là vẻ đẹp kín đáo và sâu thẳm của sông Hương mà nếu chỉ nhìn
khuôn mặt kinh thành của nó thì sẽ không thể hiểu hết được.

1.2.      Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế (đồng bằng)

-      Sông Hương - “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng” đợi người tình đánh thức-> nhuốm màu
cổ tích.

-      Thủy trình của sông Hương:

+ Dòng chảy quanh co, gập ghềnh;

+ Chuyển dòng liên tục;

Đi trong dư vang của Trường Sơn.

-> Tìm mọi cách để đến với thành phố thân yêu - người tình của nó.

-> Thủy trình của sông Hương về TP. Huế là hành trình tình yêu, cuộc tìm kiếm có ý thức người
tình mong đợi của người con gái đẹp.

-      Vẻ đẹp:

+ Mềm mại, gợi cảm: “uốn những đường cong thật mềm”, “mềm như tấm lụa”” -> duyên dáng,
thẹn thùng rất Huế.

+ Nhiều màu sắc, màu nước biến ảo: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”” -> luôn biết làm mới
mình.

+ Trầm mặc, cổ kính khi chảy dưới những rừng thông u tịch, những lăng mộ kiêu hãnh, âm u -
> hài hòa với vẻ đẹp cổ kính của cố đô.

-> Sự kết hợp tài hoa hai bút pháp kể và tả làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương hài hòa với
cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế.

1.3.      Sông Hương đến thành phố Huế (chảy qua thành phố):

-      Baèng caùi nhìn hoai hoỉa: Soâng Hởông goùp phaàn taỉo neân veũ neỉp thơ mộng, coâ kính
của Hueá bởi:

+ Nhởõng caây na, caây cởoa coâ thui', toũa vaàng laù u saàm xuoáng nhởõng xoùm thuyeàn;

+ Nhởõng aùnh lởũa thuyeàn chaoi laẳp looe trong neâm sởông;

+ Trăm nghìn aùnh hoa naêng bồng bềnh những neâm raèm thaùng Baũy.

+ Baèng sởi caũm nhaan cuũa aâm nhaỉc: Sông Hương mang vẻ đẹp lững lờ, êm đềm làm tác
giả liên tưởng điệu chảy lặng lờ ấy như:

+ Moẳt nieẳu slow chaẳm raõi, saâu laéng trởõ tình;

+ Moẳt ngởôoi taoi nởõ naùnh naon trong neâm khuya nghe thieát tha vôoi vôii:

“Trong nho tieáng haỉc bay qua

Nu'ic nho tieángsuoái môùi sa nồũa vôoi”

-> Những bản đàn đi suốt đời Kiều như một làn điệu nhạc cung đình Huế “Tứ đại cảnh”.

-       Baèng caùi nhìn say naém cuũa tình yeâu: Sông Hương được ví như người tình của xứ Huế.
+ Doong chaũy cuũa soâng Hởông nhở
“vui tồôi haún leân giồõa nhồõng bieàn baõi xanh
bieác ”, “keùo moãt neùt thaúng thồic yeân taâm theo hồôùng taây nam - hoâng baéc ”

+ Doong soâng nhở tìm nuùng nởôong veà, nhở gaẽp laii thaonh phoá thaân yeâu.

-> Nieàm vui, haùo hồùc khi gaẽp Hueá- ngồôoi tình mong hôỉi.

+ Soâng Hởông uoán caùnh cung nhei sang Coàn Heán, eâm nhở moẳt tieáng “vaâng” khoâng
noùi ra cuũa tình yeâu.

-> Veũ e aáp, dòu daong, kín haùo cuũa ngồôoi con gaùi Hueá neùp sau chieác noùn laù.

+ Ngập ngừng như muốn ni muoán ôũ, chao nhei treân maẽt nởôùc nhở nhởõng vaán vởông
cuũa noãi loong

-> Doong soâng mô maong, chÔ0 hôỉi nhồ muoán lồu giồõ heát nhồõng giaù trò coẵ xồa, nhồ
moãt ngồô0i coù tình caũm saâu naẽng vôùi Hueá.

-       Liên tưởng đến những dòng sông nổi tiếng trên thế giới: Sông Xen (Pa-ri - Pháp), sông Đa-
nuýp (Bu-đa-pét - Hung-ga-ri), sông Nê-va (Lê-nin-grat - Nga), ...

-> Ca ngợi, tự hào, tình yêu quê hương đất nước của tác giả.

-      Nét riêng của sông Hương: do những chi lưu; hai cồn trên sông; Huế là đô thị cổ -> lưu tốc
dòng nước giảm, trôi rất chậm như một mặt hồ yên tĩnh.

->Soâng Hồông vaãn la0 con soâng queâ hồông mang veũ heỉp raát rieâng: dòu da0ng, coẵ
kính.

“Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

(Thu Bồn)

Baèng buùt phaùp laăp luaăn so saùnh, pheùp nhaân hoùa, sởi' lieân tởôũng taoi hoa, taùc
giaũ khaúng hành tình caũm chaân thaonh haày ham meâ cuũa mình hoải vôùi soâng Hởông
xởù Hueá.

1.4.      Sông Hương khi rời khỏi thành phố Huế

-      Lưu luyến ra đi giữa màu xanh biết của tre trúc và vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.

-      Đột ngột đổi dòng, rẽ hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh.

-       Sông Hương chí tình trở lại gặp TP. Huế để nói lời thề trước khi ra biển như nàng Kiều chí
tình trở lại gặp Kim Trọng để nói một lời thề chung thủy.

-> Cuộc chia li đầy lưu luyến, vấn vương của đôi tình nhân, có cả chút lẳng lơ kín đáo của tình
yêu -> tình cảm thủy chung của người dân Châu Hóa với Huế.

=> Sơ kết:

-       Kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa
chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, ..., lối hành
văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa.

-       Tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng của tảc giả dành cho dòng sông quê hương, cho xứ
Huế thân yêu.

2.      Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, trong cuộc đời và thi ca

a.      Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc

-       Từ thời các vua Hùng: Sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi của Tổ quốc.

-       Ở thế kỉ trung đại: Đời nhà Lê, sông Hương mang tên là Linh Giang. Đời nhà Nguyễn, sông
“vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân ”. Sông chứng kiến những cuộc khởi nghĩa cuối thế kỉ
19.

-       CMT8-1945: sông Hương gắn liền với những chiến công rung chuyển.

-       Mùa xuân Mậu Thân, dòng sông cùng cố đô Huế chịu sự tàn phá nặng nề của đế quốc Mỹ.

Dòng sông đã sống gần như trọn vẹn một thời kì lịch sử bi tráng của đất nước.

b.      Sông Hương với cuộc đời, thi ca:

-       Bước ra khỏi chiến tranh, sông Hương trở về với hình ảnh dịu dàng quen thuộc với màu áo
sương khói huyền ảo của tự nhiên.

-       Sông Hương trở thành nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ:

+ Tản Đà: cảm nhận tinh tế về màu sắc sông Hương “dòng sông trắng, lá cây xanh ”.

+ Cao Bá Quát tạo chất hùng tráng ví sông Hương “nhưkiếm dựng trời xanh”.

+ Bà Huyện Thanh Quan phả vào dòng sông nét u buồn.

+ Tố Hữu nhìn sông Hương với “cái nhìn tha thiết tình người ”.

Sông Hương như khoe hương tỏa sắc dưới ngòi bút nghệ thuật. Dòng sông như một dòng
thi ca dạt dào bất tận.

3.      Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

-       Kết thúc bài kí bằng cách lí giải tên của dòng sông: Sông Hương - sông thơm

-       Lí giải bằng huyền thoại -> Huyền thoại ấy trả lời câu hỏi: Ai đã đặt tên cho dàng sông?

-       Chính nội dung bài kí là câu trả lời: ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên đẹp và
phù hợp với nó - Sông Hương.

-> Nhan đề và kết thúc bằng câu hỏi -> lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dàng sông; gợi niềm
biết ơn đối với những người đã khai phá miền đất này; sự ngưỡng mộ và trân trọng, ngợi ca
của tảc giả với sông Hương và xứ Huế.

-> Thiên nhiên đại ngàn, non cảnh hữu tình, lịch sử hào hùng, thi ca nghệ thuật đã đặt tên cho
dòng sông. Sông Hương tựu trung tất cả những vẻ đẹp tinh túy của thiên nhiên, cuộc sống, con
người và đất nước.

VỢ CHÒNG A PHỦ

A. Nhân vât Mị

1.     Cuộc đời làm dâu khổ đau, tủi nhục

a.      Trước khi làm dâu nhà thong lí Pá Tra:

-      Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. (Mị có tài thổi sáo, nhiều trai làng theo đuổi).

-      Mị đã có người yêu, không muốn về làm dâu nhà thống lí để trừ nợ.

-      Mị quyết tâm trả nợ bằng sức lao động của mình.

Mị khát khao được song tự do, hạnh phúc; cô muon làm chủ cuộc đời mình.

b.      Khi bị bắt về làm dâu nhà thong lí:

-      Mị làm con dâu nhưng thực chất là con nợ. Để trả món nợ truyền kiếp, Mị bị trói chặt cuộc đời

mình vào kiếp sống nô lệ.

-      Mị sống trong khổ đau, vật vả âm thầm “đêm nào Mị cũng khóc’”. Mị muốn ăn lá ngón để giải

thoát mình. Nhưng vì thương cha Mị không thể chết.Mị đành nén nỗi đau riêng mà chấp nhận
kiếp sống đọa đày.

Vì chữ hiếu, Mị đã hi sinh tự do, hạnh phúc. Từ đó, Mị rơi vào hoàn cảnh bế tắt, không loi
thoát.

c.      Kiếp song đoa đày:

*      Đọa đày về thể xác:

-      Mị phải làm lụng quanh năm suốt tháng không được ngơi nghỉ. Thân phận Mị còn thua cả con

trâu, con ngựa.

- Mị bị chồng đối xử tàn nhẫn. A sử đánh Mị vô tội vạ: Trói đứng, đạp vào mặt, tự dưng đánh
ngã xuống cửa bếp.

*      Đọa đày về tinh thần:

-      Mị sống cam chịu, nhẫn nhục: Lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, tưởng mình là con

trâu, con ngựa “chỉ biết ăn cỏ, đi làm mà thôi ”.

-      Mị sống cô độc, âm thầm: Mỗi ngày càng không nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

-      Mị không còn ý niệm về thời gian và thế giới xung quanh. Mị là một tội nhân bị giam cầm ở

chốn ngục tù “Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay... trông ta
chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”.

-      Mị mất hết niềm tin vào cuộc sống, không ý thức về tương lai, hoàn toàn tuyệt vọng “Cứ chỉ

ngồi trong cái lỗ vuông ấy đến bao giờ chết thì thôi.”

Mị tồn tại với trạng thái gần như đã chết.Sức song của Mị gần như bị tê liệt.Mị trở nên vô cảm
với moi thứ quanh mình.

=> Nhà văn đã cảm thông sâu sắc cho so phận bất hạnh của Mị. Đồng thời to cáo tội ác của bọn
thong trị tàn bạo chà đạp quyền song của con người.

2.      Sức sống tiềm tàng

a.      Khung cảnh mùa xuân ở vùng cao:

-      Mùa đông năm ấy “gió và rét dữ dội”. Nhưng mùa xuân vẫn cứ đến ở Hồng Ngài: “Trẻ con đi

hái bí đỏ, cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa được đem ra phơi.. .’’.Như một niềm mong
đợi, vui sướng khi ngày tết người nghèo cơ cực mấy ai cũng được đi chơi.

-      Ở mỗi đầu làng, trai gái, trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.Những

đêm tình mùa xuân đang tới, vang trong đêm là tiếng sáo vọng lại, tiếng sáo rủ bạn đi chơi.

Vẻ đẹp gợi cảm của không khí ngày xuân cùng với lẽ song phóng khoáng, tự do của người
Mông trở thành mãnh lực tác động đến tâm hồn Mị, một tâm hồn đang khô héo.

b.      Mị dần tỉnh lại, thoát khỏi trạng thái vô cảm bấy lâu:

-      Mị lắng nghe tiếng sáo bằng tâm trạng “thiết tha, bổi hổi”’. Cảm giác nhớ nhung da diết về kỉ

niệm của quá khứ và cảm giác rạo rực, xao xuyến của hiện tại.

-      Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”.

+ Khát vọng tìm đến tình yêu, hạnh phúc của lời bài hát như đánh thức niềm khát khao cuộc sống
tự do, hạnh phúc bị chôn vùi đã lâu trong tiềm thức Mị.

-      Mị lén lấy hũ rượu “cứ uống ực từng bát”. Cách uống đầy tâm trạng. Mị uống như thể nuốt

những đắng cay của phần đời đã qua và đang uống cho cả những khát khao cho phần đời sắp
tới.

-      Mị lắng nghe tiếng sáo gọi bạn, Mị "uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo””. Mị

sống lại những kí ức đẹp thời thiếu nữ, Mị thổi sáo giỏi, có biết bao nhiêu người mê, đi theo
Mị.

-      Sức sống trong Mị bắt đầu hồi sinh “Mị thấy phơi phới trở lại”, trong lòng đột nhiên vui sướng.

Mị ý thức mình còn rất trẻ.Mị muốn được đi chơi.Chính tiếng sáo đã làm sống dậy cái sức
sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị.

-      Nhưng lúc này, Mị cảm nhận sâu sắc nỗi tủi nhục của mình vì biết chồng Mị không đời nào cho

Mị đi chơi tết. Mị chỉ muốn ăn lá ngón để chết ngay. Đây là một biểu hiện của một tâm hồn
đang sống lại, tỉnh táo để nhận ra và thấm thía nỗi đau bị tước đoạt quyền được sống.

-      Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lững bay ngoài đường, kéo Mị trở về nỗi khát khao tự do, hạnh

phúc. Mị thắp đèn cho căn buồng sáng lên, Mị quấn lại tóc, định mặc cả váy hoa để đi chơi.
Khát vọng tự do trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị bất chấp thực tại khổ đau.

-      Bị A Sử trói nghiến vào cột nhà, Mị không phản ứng vì lúc này tâm hồn Mị vẫn miên man theo

tiếng sáo. Nỗi đam mê cuộc sống trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị không còn cảm giác thể xác đau
đớn.

-      Mị không còn nghe tiếng sáo nữa. Mị thổn thức khóc cho thân phận “mình không bằng con

ngựa””.Mị nhớ về câu chuyện một người vợ bị chồng trói đến chết.Mị sợ chết.Sợ chết có nghĩa
là không muốn chết.Mị vẫn rất ham sống và muốn sống.

Tiếng sáo chính là âm thanh của tình yêu, tự do, hạnh phúc. Tiếng sáo gợi kỉ niệm quá khứ,
đánh thức sức sống tiềm ẩn trong tâm hồn Mị.

=> Nhà văn đã sử dụng bút pháp tương phản giữa hoàn cảnh tù túng, khắc nghiệt với lòng người
tha thiết cuộc sống tự do để khẳng định: Sức sống của con người rất kì diệu. Dù bị đè nén, vùi
dập tới đâu cũng không thể hủy diệt.

3.      Sự phản kháng mạnh mẽ, táo bao

-      Khát vọng sống trở thành ngọn lửa âm ỉ trong lòng Mị. Khi có cơ hội, ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy,

trở thành một sự phản kháng mãnh liệt không ai có thể ngờ tới.

-      Những đêm mùa đông trên núi cao, Mị thường dậy sớm trong nỗi cô đơn hiu quạnh một mình

lặng lẽ. Thấy A Phủ bị trói, lúc đầu Mị thản nhiên “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng
thế thôi ”.
Nhưng đến lúc bất chợt nhìn thấy dòng nước mắt đau đớn, tuyệt vọng của A Phủ thì
tâm hồn Mị hồi sinh một tình người sâu sắc:

+ Mị thấy đồng cảm với A Phủ, “Mị nhớ lại đêm năm trước A Sử cũng trói Mị, Mị cũng phải trói
đứng thế kia””.
Mị và A Phủ là những phận người đồng cảnh ngộ, vừa nghèo khổ vừa bị bọn
thống trị đày đọa tàn nhẫn.

+ Trong phút chốc Mị nhớ lại những ngày tháng tủi nhục trước đây. Mị sống và làm việc như một
con vật, bị bắt trói đứng suốt đêm. Mị nhớ đến người đàn bà bị chồng trói đến chết. Trong Mị
bừng lên sự căm phẫn tột cùng
“Chúng nó thật độc ác ”.

+ Mị lo lắng, cảm thương cho tình cảnh hiểm nghèo của A Phủ “ Chỉ đêm mai là người kia chết
chết đau, chết đói, chết rét, phải chết
”. Một cái chết thê thảm sẽ đến với A Phủ.

+ Mị thấy thật bất công, vô lí nếu A Phủ phải chết “người kia việc gì phải chêt thế”. Mị nhận ra
nếu phải chết thì đó là một cái chết đầy oan ức cho A Phủ.

+ Mị nghĩ rằng nếu giải thoát cho A Phủ thì Mị sẽ là người thay thế nhưng “làm sao Mị cũng
không thấy sỢ”.
Sức mạnh của tình người thôi thúc Mị, khiến Mị chiến thắng sự sợ hãi.

+ Mị quyết tâm cởi trói cho A Phủ, Mị đem hết nghị lực để thực hiện hành động táo bạo ấy. Dù
trong lòng rất hồi hộp, lo lắng đến
“nghẹn lại”” nhưng cách Mị cắt, gỡ dây trói thì rất dứt khoát.
Sự dũng cảm, lòng thương người đã giúp Mị giải thoát cho A Phủ.

+ Mị đứng lặng trong bóng tối. Đó chính là giây phút Mị suy nghĩ về bản thân và lựa chọn.Mị
đang đứng ở ranh giới ở lại thì chết mà chạy đi có thể được sống. Một khoảnh khắc định mệnh
và Mị phải sáng suốt quyết định.

+ Mị đã vùng chạy theo A Phủ. Một sự lựa chọn sáng suốt. Chỉ có giải thoát mới mong thay đổi
được số phận, mới được sống đúng nghĩa. Hàng loạt động từ:
“Vụt chạy, băng đi, đuổi kịp,
lăn...”
cho thấy Mị đã dồn hết sức mạnh cố thoát khỏi cõi chết để tìm đến sự sống. Mị và A
Phủ
“đỡ nhau lao chạy” trong niềm thôi thúc mãnh liệt của lòng khao khát được sống tự do.

Đây là kết quả tất yếu của một quá trình Mị bị dồn nén, chà đạp.Sức sống tiềm tàng đã thúc
đẩy Mị phản kháng và tự giải thoát mình.

=> Mị, tiêu biểu cho người phụ nữ lao động người Mông nghèo khổ, bị vùi dập trong hoàn cảnh
khắc nghiệt nhưng vẫn tỏa sáng một tâm hồn đẹp: Khát khao tự do, hạnh phúc, dũng cảm vùng
lên giải thoát số phận nghiệt ngã.

B. Nhân vât A Phủ

1.      A Phủ với số phận đặc biệt

-      A Phủ thoát khỏi trận dịch đậu mùa, mồ côi cha mẹ, sống một mình không người thân thích. Từ

bé, A Phủ đã gan bướng trốn lên vùng núi cao để sống cuộc đời tự do.

A Phủ là một mầm sống khỏe, vượt qua sự sàng lọc khắc nghiệt của tự nhiên, bướng bỉnh gan
lì với mọi thử thách với cuộc đời.

-      Lớn lên, A Phủ trở thành chàng trai Mông khỏa mạnh, tháo vát “chạy nhanh như ngựa”, nhiều

cô gái trong làng mơ ước được lấy A Phủ làm chồng.

Dù nghèo khó, cơ cực nhưng A Phủ thản nhiên đối mặt với cuộc sống, trưởng thành khỏe
khoắn, tốt đẹp.

-      A Phủ rất nghèo, “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc ”, A Phủ không lấy nổi vợ vì

phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo. Nhưng tết đến, A Phủ vẫn đi chơi, đi tìm người yêu.
Bất chấp thân phận, A Phủ là một chàng trai khát khao cuộc sống tự do, hạnh phúc.

=> Cuộc sống hoang dã ở núi rừng đã hun đúc cho A Phủ một sức sống mạnh mẽ, một bản lĩnh
vững vàng trước mọi gian khổ, khó khăn.

2.      A Phủ với cá tính đặc biệt:

-      Tự lập từ thuở bé, khiến khi lớn lên A Phủ là một chàng trai mạnh mẽ, táo bạo, gan góc. Biết A

Sử là kẻ xấu, ỷ thế con quan nên A Phủ đã thẳng tay trừng trị “chạy vụt ra vung tay ném con
quay rất to vào mặt A Sử.xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo , đánh tới
tấp”.

Hàng loạt động từ mạnh cho thấy sức mạnh, sự ngang tàng của A Phủ trước thế lực cường
quyền.

-       A Phủ trả giá rất đắt cho hành động đó, trở thành người làm công gạt nợ cho thống lí; thế nhưng:
+ Làm lụng vất vả
“một thân một mình bôn ba ngoài gò ngoài rừng”, A Phủ vẫn phăng phăng

làm mọi thứ như trước kia.

+ Để hổ ăn mất một con bò, A Phủ vác nửa con bò hổ ăn dở về gặp thống lí nói chuyện đi bắt hổ
một cách thản nhiên.

+ A Phủ lặng lẽ đo lấy cọc, lấy dây mây rồi đóng cọc cho người ta trói thế mạng cho con hổ cũng
rất thản nhiên.

A Phủ mạnh mẽ, gan góc. Dù sống kiếp nô lệ nhưng những biểu hiện cho thấy A Phủ vẫn là
một chàng trai của tự do.

-      Bị trói đứng nhiều đêm, A Phủ đã khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã

xám đen lại”.

Đó là lúc A Phủ đã ý thức được nỗi đau của mình, khóc mà uất ức, đau đớn cho số phận của
mình.

-      Khi được Mị cứu, A Phủ khuỵu xuống nhưng chợt bừng tỉnh “ quật sức vùng lên chạy ”. A Phủ

cũng hiểu được hoàn cảnh của Mị nên đã mang Mị theo cùng.

Sức sống mãnh liệt đã chiến thắng áp bức đọa đày.

->Một người như A Phủ thì không dễ gì buông xuôi số phận. Đó là sức mạnh tiềm tàng của một
mầm sống luôn gan lì đối mặt với môi trường khắc nghiệt và vươn lên tìm tới tự do.

=> A Phủ tiêu biễu cho người thanh niên lao động Mông có số phận bất hạnh nhưng có sức sống
mãnh liệt, có tinh thấn phản kháng mạnh mẽ.

III.     Ý nghĩa truyện

-     Bằng giọng văn nhẹ nhàng , tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, giàu chất thơ; tác phẩm

là câu chuyện về những người lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa
đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc
sống tự do.

-     Khẳng định giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Bài 10 :VỢ NHẶT

1. Nhân vật Tràng:

-     Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về những phong tục văn hóa cổ truyền, đời sống
làng quê với giọng văn chân thật, xúc động, tài hoa.Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc nhất của Kim
Lân in trong tập truyện Con chó xấu xí, tiền thân của truyện ngắn này là Xóm ngụ cư. Truyện
tố cáo thực dân, phát xít đẩy dân ta vào nạn đói thê thảm đồng thời ca ngợi những người lao
động trong đói khổ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao khát sống, khao khát hạnh phúc
và hướng tới cách mạng đầy tin tưởng.

-     Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ nhưng giàu
tình yêu thương , luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị , biết hướng tới tương lai tươi đẹp

* Triển khai:

-     Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam
do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Những người năm đói được miêu tả với
khuôn mặt hốc hác u tối,Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt
bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và bóng những người đói dật dờ đi lại
lặng lẽ như những bóng ma. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy,
tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết cùng với mùi gây của xác người càng tô đậm cảm giác tang
tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp.

-     Tràng là dân lao động ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Anh xấu xí, thô kệch hai con mắt nhỏ
tí, cái đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu. Là người ko bình thường, ngờ nghệch vừa đi
vừa nói, ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Ăn nói thô lỗ, chỉ là những câu đối đáp ngắn, thậm
chí thô tục làm đếch gì có vợ.

-     Là người hiền lành, vui vẻ nên trẻ con trong xóm rất mến anh. Tràng nhân hậu, mời người đàn
bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Tràng cho Thị ăn ko phải vì để trả ơn hay lợi dụng mà vì sự cảm
thông, vì tình người.

-     Tràng nhặt vợ thật dễ dàng, chỉ bằng câu nói nửa đùa, nửa thật này nói đùa chứ có về với tớ
thì ra khuân hàng kên xe rồi cùng về. Khi người phụ nữ quyết định theo mình, Tràng nghĩ thóc
gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nỗi ko, lại còn đèo bồng. Cuối cùng anh
quyết định liều lĩnh dẫn Thị về.Nghĩa là anh khao khát có hạnh phúc gia đình, khao khát lứa
đôi, điều mà trong hoàn cảnh bình thường, với Tràng chỉ là mơ ước.

-     Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại,
Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc.Khát vọng mái ấm gia đình
đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng. Tràng
chậc lưỡi kệ cái đói, mua cho thị cái thúng con, vài xu dầu và đang thị về căn nhà lụp xụp rách
nát của mẹ con mình.

-     Trên đường về nhà, thái độ của Tràng có nhiều khác lạ:

+ Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng
lên lấp lánh. Đó là niềm vui mộc mạc của người đàn ông nghèo, lần đầu được đi bên một người
phụ nữ.

+ Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư Tràng thấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ
vênh lên tự đắc với mình.

-     Khi dẫn Thị vào nhà:

+ Xăm xăm bước vào trong nhà, dọn dẹp nhà cửa, thanh minh về cảnh nhà bừa bộn vì thiếu tay
đàn bà. Ngượng nghịu đứng ngây ra giữa nhà chờ mẹ về.Cũng vì Tràng và thị chưa hiểu gì về
nhau.Hơn nữa, Tràng sợ thị đổi ý vì gia cảnh quá nghèo. Cũng có thể Tràng sợ mẹ ko chấp
nhận.

-    Khi thấy mẹ về:

+ Tràng reo lên như một đứa trẻ, mời mẹ vào trong nhà, trình bày ngắn gọn câu chuyện lấy vợ
đặc biệt của mình và cũng là để xin phép mẹ. Và khi được mẹ đồng ý thì Tràng thở đánh phào
một cái, ngực nhẹ hẳn đi.. .bước từng bước dài ra sân.

-     Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn đã có một
gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là
một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên
người.Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.Một niềm vui thật cảm
động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.

-     Chi tiết: Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại
căn nhà là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng:
từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một
ý thức bổn phận sâu sắc: hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Tràng thật sự
phục sinh tâm hồn đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.

-     Câu kết truyện Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới chứa đựng
bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu
thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi
số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 - 1945 không
nhìn thấy được. Nền văn học mới sau cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề
số phận con người theomột cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

*    Đánh giá:

-     Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân
đạo, là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai
tươi sáng của con người .

-     Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà
ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc
đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

2.    Nhân vật thị:

*    Đặt vấn đề:

-     Trong tác phẩm văn học, sự xuất hiện của bất cứ nhân vật nào, dù là nhân vật phụ cũng nằm
trong ý đồ sáng tạo của nhà văn. Ít nhiều, sự xuất hiện đó sẽ mang đến văn bản văn học những
giá trị nhất định.

-    Khi thị xuất hiện với bộ dạng thiểu não trong truyện ngắn Vợ nhặt thì không phải Kim Lân
đang gia công bêu xấu con người mà nhà văn muốn thể hiện những điều cao cả hơn thế nữa.

*    Triển khai:

-     Thị xuất hiện trong trang văn của Kim Lân không có tên, không gia đình, quê hương, bị cái
đói đẩy ra lề đường. Mỗi bận qua cửa nhà kho là thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đấy. Họ
ngồi đấy nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Với ngoại hình tố cáo rõ
hiện thực cái đói và tội ác của bọn phát xít thực dân.Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như
tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Thị
chẳng khác gì con ma đói. Thị là nạn nhân của cái đói.Cái đói không chỉ tàn phá ngoại hình Thị
mà còn cả tính cách.Cái đói ấy đã đẩy Thị trở nên chao chát, chỏng lỏn, đanh đá, liều lĩnh, mất
lòng tự trọng. Khi nghe Tràng hò, thị cong cớn, rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng. Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở
đâu sầm sập chạy đến, rồi sưng sỉa nói. Thị lại gạ ăn: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thế là thị
ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn
xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở. Thị chỉ tin vào câu nói nửa đùa nửa thật của
Tràng, theo Tràng về làm vợ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc và những lời nói bông đùa, Thị theo
không Tràng về làm vợ.

-     Trên đường trở về nhà Tràng, nét dịu dàng của thị được trở lại. Thị có vẻ rón rén, e thẹn, vẻ
cong cớn vừa nãy biến đâu mất.Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn". Khi"biết xung quanh người
ta đang nhìn đổ cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Về
đến nhà Tràng, thị đảo mắt nhìn xung quanh căn nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn
mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Thị thấy, Tràng
cũng không hơn gì mình.Nhưng thị không chạy trốn.Thị chạy trốn cái đói để liều lĩnh về làm
vợ Tràng.Nhưng lần này thị không chạy trốn.Có lẽ bởi khát khao mái ấm gia đình. Thị ngồi
mớm ở mép giường, lo âu, băn khoăn, lo lắng, hồi hộp, không biết bà cụ Tứ sẽ đối xử với mình
ra sao. Nhưng khi cảm nhận được tình yêu thương của bà cụ, thị đã tự nhiên hơn được một chút.

-     Buổi sáng hôm sau, thị dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Có bàn tay thị
căn nhà trở nên gọn gàng sáng sủa, đầm ấm hơn. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt
khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong Hai cái anh nước vẫn để khô cong
ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch. Tràng
nom thị hôm nay khá lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát,
chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Thị chính là người thắp sáng trong Tràng niềm
tin vào tương lai. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải ko lắng
cho vợ con sau này. Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng
beo u xám của bà rạng rỡ hẳn lên.Không chỉ thế, nhân vật Thị còn nâng cao giá trị tác phẩm ở
phần kết.

-     Cùng viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám, nếu như Tắt đèn là hình ảnh chị
Dậu chạy ra trong tăm tối, Chí Phèo khao khát được làm người giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu
đời mình. Các tác phẩm đều kết thúc tăm tối không lối thoát của người nông dân.Nhưng với Vợ
nhặt thì khác.Thị đã gợi đến chuyện người Bắc Giang không còn phải đóng thuế nữa.Kết thúc
tác phẩm là lá cờ đỏ sao vàng.

*    Đánh giá:

-     Nhân vật thị bước vào tác phẩm còn trở thành nhân tố tạo nên môl liên kết giữa các sự kiện
trong dó. Sự xuất hiện của thị đưa câu chuyện đạt được sự thống nhất, hoàn chỉnh, chặt
chẽ.Thiếu váng hình tượng này, câu chuyện của Kim Lân sẽ kém đậm đà và chắc chán những
thông điệp của tác giả sẽ không thể tới người đọc.

3.    Nhân vật bà cụ Tứ:

*    Đặt vấn đề:

-     Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối, với nạn đói khủng
khiếp năm 1945. Kim Lân không miêu tả kĩ cái hiện thực tàn khốc của nạn đói lúc bấy giờ mà
tập trung thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xơ xác vì đói khát của những người
nghèo khổ. Trong cảnh ấy, họ vẫn nhen nhúm niềm tin và hi vọng vào tương lai tươi đẹp.

-    Trong Vợ nhặt xuất hiện ba nhân vật: Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt, thì bà cụ Tứ - mẹ
anh Tràng đã gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc hơn cả bởi tấm lòng nhân hậu, vị tha,
đức hi sinh rất đáng trân trọng của bà.

*    Triển khai:

-    Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nông thôn nghèo: Tài sản của bà chỉ mái nhà tồi tàn ở xóm ngụ
cư và đứa con trai khờ khạo.

-     Hình dáng: Lọng khọng, xuất hiện vào một buổi chiều tàn tạ, trời chiều nhá nhem của ngày
đói cùng với tiếng hung hắng ho. Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để
bà cụ Tứ xuất hiện, không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi
lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào
phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này.Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ
về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất
hiện trong ngôi nhà của mình.

-     Bà cụ Tứ là một người mẹ nhân hậu, vị tha, giàu yêu thương: Niềm khao khát mong ước duy
nhất của người mẹ là hi vọng con mình có vợ. Nhưng vì cái nghèo quẩn quanh, đeo bám mà bà
không có tiền cưới vợ cho con, điều này luôn là nỗi áy láy thường trực trong trái tim người mẹ.
Khi anh Tràng đưa người vợ nhặt về nhà, tâm lí bà cụ đã có những thay đổi liên tục

-     Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình Bà cụ
Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì ling tính cho bà biết trong nhà hẳn
xảy ra chuyện gì.Mà quả đúng như vậy.Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên
hơn.Trong nhà bà có người, lại là đàn bà.Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?Bà chưa gặp, bà
không quen bao giờ. Người ấy lại đướng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào
mình bằng u?..Ai thế nhỉ?Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão.Hay bà già rồi, trông gà hoá
cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì
phải..Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn.Đúng là có người rồi.Bà lão
nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không
hiểu. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được
khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương mình, thương con và thương cho người đàn bà lạ kia.
Giữa cảnh chết chóc như ngả rạ, nạn đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người
như thế này bà không lo, không buồn sao được.

-    Bà cụ Tứ là một người mẹ bao dung và thấu hiểu cuộc đời:

+ Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng
này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình bao
nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại ấm no và
hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì
không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh
bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.

+ Diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín hiệu đáng
mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ nhặt của đứa con, cũng giống như việc chấp
nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi
vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục: Nhà ta nghèo, liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi
anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào
hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau. Sự ân tình, chu đáo
của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận
người vợ mới của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.

+ Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm ba mâm
nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu có gắng. Chi tiết này đã cho thấy sự đồng cảm
giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo.Sự gắn kết này sẽ mang lại một hơi
ấm và sức sống cho gia đình sau này.

+ Hình ảnh nồi cháo cám ngày đói mà người mẹ này mang đến thực sự khiến chúng ta cảm
động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như nó vẫn mang, nó
là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành
cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng
vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.

-     Bà cụ Tứ là một người mẹ rất biết lạc quan: Bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi
vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn
cảnh khắc nghiệt. Hiện thực dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con
người với con người với nhau.

* Đánh giá:

-     Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân thật và cảm
động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945. Nhân vật bà cụ
Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời
nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con
sâu sắc.

-     Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào
hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm
chất tốt đẹp: Lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù
cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã khám phá và thể hiện thành công điều đó
ở nhân vật bà cụ Tứ.

4.    Giá trị nhân đạo của tác phẩm:

*    Đặt vấn đề:

-     Vợ nhặt là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng
nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng, người chết đói
đầy đường.Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc
của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách
mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của câu chuyện chính là tính nhân đạo.

-    Cho đến nay, nền văn học hiện đại Việt Nam ít có tác phẩm nào viết về nạn đói năm Ât Dậu

-     1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn Vợ nhặt. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu
truyện đến cuối truyện. Điều đó càng khẳng định vai trò và vị trí của nhà văn Kim Lân trong
nền văn học hiện đại Việt Nam.

*    Triển khai:

-     Nhân đạo là lòng yêu thương con người, lên án những điều xấu xa, bất công tàn bạo trong xã
hội, là thái độ trân trọng những giá trị cũng như khả năng vươn lên của con người. Tác phẩm
bộc lộ niềm xót xa, thương cảm đối với cuộc sống bi đát của người dân nghèo trong nạn đói,
qua đó nhà văn tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phát xít đối với nhân dân ta.

-     Truyện Vợ nhặt đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận
đói năm Ât Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế
dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu
trên những ngọn cây bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Mùi gây của xác người
vẩn lên khắp xóm chợ.Người chết đói như ngả rạ.Sáng nào cũng ba bốn cái thây nằm còng queo
bên đường.

-     Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn
đầy cỏ dại.Cửa nhà là một tấm phên rách.Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới
đất.Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng nén một tiếng thở dài .Bà cụ Tứ mặt bủng
beo u ám.Anh cu Tràng bước mệt mỏi, cái đầu trọc nhẵn chúi về đàng trước với bao lo lắng
chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó ngồi ủ rũ dưới
những xó đường không buồn nhúc nhích. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái ngồi vêu
ra. Đặc biệt nhân vật thị, cái đói đã cướp đi tất cả.Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh
em.Không quê hương bản quán.Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương.Áo quần tả tơi như tổ
đỉa.Thị gầy sọp hẳn đi, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía
trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chỉ nghe Tràng nói
muốn ăn gì thì ăn, thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu, hai con mắt trũng hoáy của thị tức
thì sáng lên. Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng
không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được
ăn, thị cần được sống.Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người
nghèo.

-     Cái xóm ngụ cư càng về chiều càng xơ xác, heo hút, nhà cửa úp súp, tối om, những khuôn mặt
hốc hác u tối.Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái
giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể nhặt được. Thị lấy chồng không một quả cau, không
một lá trầu. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới khép nép, cúi mặt xuống tay
vân vê tà áo đã rách bợt. Tối tân hồn tiếng khóc tỉ tê của những gia đình có người mới chết đói
vọng đến thê thiết não nùng.Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi dồn dập, vội
vã.

-     Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo
âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý
hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của
Nhật - Pháp bắt trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm
Ât Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

-     Truyện Vợ nhặt đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người. Cách kể
của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và những tình tiết xoay quanh
nàng dâu mới.Chỉ một vài câu tầm phơ tầm phào, Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc thế mà hắn
nhặt được vợ. Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: Chặc, kệ !.Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi
thân còn khó, lại còn đèo bòng.Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh
cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch
này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng phởn phơ khác thường.Hắn tủm
tỉm cười nụ. Hai mắt sáng lên lấp lánh.Có lúc cái mặt hắn cứ vênh lên tự đắc với mình.

-     Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông hay đáo để. Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì,
bị thị phát đánh đét vào lưng với câu mắng yêu: Khỉ gió. Tràng nghển cổ thổi tắt phụt ngọn đèn
con, bị thị mắng: Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ !. Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu
mạnh hơn cái chết.

-     Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn
hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương
minh, bà nhận nàng dâu mới: Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng
lòng. Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được.. .Bà dịu dàng yêu thương gọi
nàng dâu mới là con. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: Năm nay thì đói to đấy. Chúng
mày lấy nhau lúc này u thương quá.. Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao
động nghèo khổ đứng trước tai họa, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho
nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: Ai giàu ba họ, ai
khó ba đời.. Người đọc cảm thấy ngọn đèn vàng đục chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn
của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.

-     Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong
truyện Vợ nhặt.Bà cụ Tứ gọi là chè khoán. ngon đáo để. Bà tự hào nói với hai con là xóm ta
khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung
sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng đầm ấm hòa hợp hạnh phúc. Sau này, vợ
chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ không
bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám đắng chát mà lại ngọt
ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu
sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc
đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,. mà không một
thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh bằng.

-     Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cay
Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: Chồng vợ hài. Việc
Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống
đói khát, tăm tối của họ.Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi
tỉnh rạng rỡ hẳn lên. Vợ Tràng trở thành người đàn bà hiền hậu đúng mực.Tràng như từ một
giấc mộng bước ra.Anh ngủ dậy cảm thấy êm ái lửng lơ.Hạnh phúc đến quá bất ngờ.Việc hắn
có vợ sau một ngày một đêm mà hắn vẫn ngỡ ngàng như không phải.

-     Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại
nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống
rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sach. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng
muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về
sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy hắn đã nên người, hắn thấy hắn có bổn
phận phải lo lắng cho vợ con sau này !

-     Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái
Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người
đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình lá cờ đỏ bay phấp phới. Cách mạng sắp đến.Nạn đói
sẽ bị đẩy lùi.Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện Vợ nhặt không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn
tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.

* Đánh giá:

-      Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm này, chúng ta không
chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của ông về cuộc sống của người
nông dân, mà điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm, cái tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng
của Kim Lân đối với những người lao động nghèo khó trước Cách mạng

-       Sự thành công của tác phẩm Vợ nhặt chính là kết quả của cây bút tài năng, gắn bó sâu sắc với
cuộc đời, biết yêu thương trân trọng giá trị của con người. Giá trị nhân đạo được tiếp tục đề cao
trong mỗi tác phẩm.Từ đó, cái tâm của người cầm bút càng khẳng định được giá trị của mình.

RỪNG XÀ NU

a.      Hình tượng cây xà nu

*       Vị trí xuất hiện : nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các
nhân vật ở trong truyện.

*      Nghĩa thực : Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.

*      Nghĩa biểu tượng :

-       Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:

+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman.

+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman.

+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp
suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi
xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu
thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.

-       Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến
tranh cách mạng.

+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất
mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai...) và
đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.

+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý
tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.
+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người
dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mĩ.

+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho
sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên
trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.

-       Nghệ thuật miêu tả:

+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh
một số cây

+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn
đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng

+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu
trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng
trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng
thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.

+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà
nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ
là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể
đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống
đế quốc Mĩ.

b.    Hình tượng nhân vật Tnú

-      Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:

+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai
xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.

+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.

+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ
thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không
ngờ” đến.

+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về
làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”.

-      Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng

+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới
về thăm.

+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối:
khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa
lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết : “người cộng sản không thèm kêu van”.

-      Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận

+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê
gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm
thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của
người dân làng Xôman.

+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù : Thù của
bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng

-      Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời

+ Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết
dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ ...

+ Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận
sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng
ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay
tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.

-      Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân
Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: “chúng nó đã cầm súng mình phải
cầm giáo”.

+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân
lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn
khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ
được vợ con và bản thân.

+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là
sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với
cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.

Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho
số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói
riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.

c.     Cụ Met, Dít, bé Heng

-     Cụ Met: “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người
kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con
đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất
của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc.

Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.

-     Dít: một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng;
tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít
là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết
liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà
nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.

-     Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến
chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách
mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây
xà nu con” “mới mọc lên”.

d.     Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn

+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xôman) không chỉ là
vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.

+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh
cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người
Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung
thành với cách mạng...

+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.

+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng
từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm

+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo - hình tượng cây xà nu, rừng xà
nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay
bổng cho thiên truyện.

+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.

6.     Đặc sắc nghệ thuật

+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí,
hành động của nhân vật)

+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực
lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa
mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,...)

+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng,
đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.

+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân
làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm
nhìn,.) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.

Bài 12 : CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

(Nguyễn Minh Châu)

I. Tìm hiểu chung

1.     Tác giả, tác phẩm

-       Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An.

-      Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội- Từ năm 1952 đến 1958 ông công tác và chiến đấu tại sư
đoàn 320.- Năm 1962 ông về phòng văn nghệ quân đốị sau chuyển sang tạp chí văn nghệ quân
đội.

-       Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu
là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống
ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong
cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách

-       Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện
nay. Năm 2000, ông được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.

-      Tác phẩm chính : “Dấu chân người lính”,“Chiếc thuyền ngoài xa”,...

2.      Xuất xứ

-       “Chiếc thuyền ngoài” xa được viết năm 1983 - khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã
đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa
nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra.

-       Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai
thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.

3.      Tóm tắt

-      Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung
(cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau.

-      Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho”

-        đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương.

-        Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền
đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã
đánh trả lại cha mình.

-        Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp...

-         Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã
đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết
không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích
cho sự từ chối trên.

-         Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật
hoàn toàn”
về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ
đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng
thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.

4.      Nhan đề

-        “Chiếc thuyền ngoài xa” trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự

toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được
thanh lọc.

-      Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những

éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.

-      Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ

cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ
thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống.

-      Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.

5.      Tình huống truyện

-      Tình huống: một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh về

cảnh biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh tượng “trời
cho”
- đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng
khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập
người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người đàn bà được mời đến
tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng
chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị ta không bỏ chồng dù người chồng tàn bạo.

- Đây là một “tình huống nhận thức ”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân
lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những ngang trái, nghịch lí của
đời thường.

-      Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã

hiểu ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người
đàn bà hàng chài.Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề
“đôi mắt”, cách nhìn đời, nhìn
người trong cuộc sống.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Nhân vật Phùng

a. Thể hiên quan niêm về nghê thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu:

*      Phùng là người yêu nghề, có trách nhiêm với nghề:

-      Anh đã phục kích mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào.

-      Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm anh mới chụp được bức ảnh ưng ý.

->Phùng không đơn giản, qua loa với công việc mà anh luôn hết lòng vì công việc.

*      Phùng là một nghê sĩ tài năng:

-      Anh đã phát hiện bức tranh thiên nhiên giàu giá trị nghệ thuật:

+ Trước mặt Phùng là một khung cảnh thiên nhiên như “bức tranh mực tàu của một danh hoạ
thời cổ ”.

+ “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu
hồng hồng của mặt trời chiếu vào”.

+ “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum,
đang hướng mặt vào bờ”.

+ Khung cảnh được nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới giữa hai chiếc gọng vó giống hệt
“cánh một con dơi”, đẹp từ đường nét đến ánh sáng.

->Phùng là người nghê sĩ săn tìm cái đẹp. Anh thực sự biết quan sát bằng đôi mắt tinh tường,
"nhà nghề ” để lựa chọn cái đẹp hài hoà giữa thiên nhiên, cảnh vật, con người - vẻ đẹp mà cả
đời bấm máy anh chỉ gặp một lần.

*      Phùng là người nghê sĩ thật sự rung cảm trước cái đẹp:

-      Cái đẹp đã làm Phùng xúc động và nhận ra sự rung cảm của tâm hồn mình.

+ Anh liên tưởng tới câu nói của ai đó “bản thân cái đẹp chính là đạo đức ”.

+ Và tưởng chính mình vừa khám phá “cái chân lí của sự hoàn thiên, khám phá thấy cái khoảnh
khắc trong ngần của tâm hồn".

->Người nghê sĩ cảm thấy hạnh phúc khi khám phá và sáng tạo, khi cảm nhận cái đẹp hài hoà,
lãng mạn giữa thiên nhiên và cuộc đời. Trong hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” giữa biển trời
mờ sương, Phùng đã cảm nhận cái đẹp toàn bích và thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở
nên trong trẻo, tinh khôi. Từ đây, ta thấy người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái
đẹp đến cho đời.

*      Nhân vật Phùng thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu:

-      Qua việc khám phá bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” của Phùng, tác giả muốn đề ra một quan

niệm về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ
cho cuộc sống; người nghệ sĩphải có tài năng, có sự lao động miệt mài và phải có sự xúc động
trước cái đẹp thì mới sáng tạo được những tác phẩm có giá trị.

b. Nhân vật Phùng thể hiện cách nhìn về cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu:

*      Phùng là người có tấm lòng nhân hậu:

-      Chưa thoả thuê ngắm bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” thì ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng

vào nơi Phùng đứng.

-      Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ bước ra một người

đàn bà xấu xí, một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, đánh vợ như một phương cách để giải tỏa
những uất ức, khổ đau... Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp
“toàn bích, toàn thiện”mà anh vừa
bắt gặp trên biển.Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.

-       Chứng kiến cảnh ấy, Phùng đã “kinh ngạc đến mức (...) há mồm ra mà nhìn” rồi sau đó thì “vứt
chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”.
Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác (con lão
đàn ông) đã kịp tới để che chở cho người mẹ .

-      Đến lần thứ hai, bản chất người lính ở người nghệ sĩ được thể hiện.Anh xông ra buộc lão đàn

ông phải chấm dứt hành động độc ác ... Hành động của Phùng cho thấy anh không thể làm
ngơ trước sự bạo hành của cái ác.

->Đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải
là “đạo đức ”, là “chân lí của sự toàn thiện” mà nó là những ngang trái, xấu xa, những bi kịch
còn tồn tại trong cuộc sống.

*      Phùng luôn ý thức để hoàn thiện nhân cách:

-      Tận mắt chứng kiến vẻ đẹp của bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa”, cảnh người đàn ông đáng vợ

và khi lắng nghe câu chuyện của người đàn bà ở toà án (vì tình thương con, vì ý thức phải sống
cho con, vì mong nuôi con cho đến khi khôn lớn mà chị chấp nhận gánh lấy cái khổ), Phùng
nhận thức rất nhiều điều qua các cảnh ấy.

+ Đằng sau bức ảnh như “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” là những điều nghịch lý
trong cuộc sống đời thường với biết bao số phận, bao mảnh đời éo le.

+ Để Phùng chứng kiến hành động vũ phu của người chồng, Nguyễn Minh Châu muốn phê phán
tình trạng bạo lực trong gia đình, một mảng tối của xã hội đương đại.

+ Phùng đã hiểu về người đàn bà hàng chài kia: Ân bên trong sự xấu xí, nhẫn nhục là vẻ đẹp tình
mẫu tử đầy vị tha, là khát khao hạnh phúc bình dị đời thường của người phụ nữ còn đói nghèo,
lạc hậu.

+ Nỗi trăn trở của Phùng trong nhiều năm dài về hình ảnh người đàn bà hàng chài cứ hiện ra sau
mỗi lần anh ngắm bức
ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” chính là quá trình tự ý thức của Phùng để
hoàn thiện nhân cách của mình.

=>Phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên, về sự thật cay đắng, đầy bi kịch, nghèo khổ
của những con người lao động bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của nhà
văn về nhân cách, đời sống con người; bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ
đẹp trong tâm hồn người dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

2.      Nhân vật người đàn bà hàng chài

a.      Số phân:

-      Người đàn bà vùng biển trong truyện ngắn hiện lên qua cái nhìn của Phùng - người nghệ sĩ

nhiếp ảnh đã tình cờ chứng kiến những bi kịch gia đình của chị.

+ Chị không hề có tên. Tác giả chỉ gọi chị là “người đàn bà” một cách phiếm định.Có lẽ đây là
một dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

+ Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác,
nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm
nhất trong truyện ngắn.

-> Cách gọi tên nhân vât như vây vừa cụ thể nhưng lại vừa khái quát, vừa phiếm định nhưng lại
vừa xác định.

-        Chị là một người phụ nữ lao động lam lũ ở làng vạn chài, cả nhà sống lênh đênh trên một chiếc

thuyền đánh cá.

-        Chị là một người phụ nữ đau khổ - nạn nhân đáng thương của sự lạc hậu đói nghèo, chị thường

xuyên bị chồng đánh đập, ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.

-> Nhân vât người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa ” là hiện thân cho những mảnh đời tăm
tối cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta.

b.      Ngoại hình:

-        Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà hàng chài lại là một người phụ nữ

có ngoại hình thô kệch, xấu xí.

-> Người đàn bà với cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như tất cả những người người đàn bà ở vùng
biển - nơi mà con người ta luôn phải đối diện với hiểm nguy, cuộc sống luôn phải đặt trong
vòng vây của sự đói khát, bấp bênh.

c.      Phẩm chất, tính cách:

-        Sức chịu đựng ghê gớm: Cam chịu, nhẫn nhục chịu để chồng đánh một cách bình tĩnh như thực

hiện một nghĩa vụ. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời mình, chấp nhận nó
như cuộc sống của người đi biển đánh cá phải đương đầu với sóng to, gió lớn vậy.

-        Rất tự trọng. Sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách

lạ (Phùng) chứng kiến, chị thấy “đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”.Và
chị đã khóc.

-        Thương chồng: Chị cầu xin vị chánh án đừng bắt mình phải li hôn với gã chồng thường xuyên

hành hạ chị: “Con lạy quý toà... Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng
bắt con bỏ nổ”.

-        Chị là người mẹ thương con:

+ Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gởi con cho bố ruột mình
nuôi. Không muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với chồng mỗi lần đánh chị thì lên
bờ mà đánh khi không có mặt con. Đó cũng là một cách ứng xử rất nhân bản.

+ Chị nhẫn nhục chịu đựng đòn roi của chồng vì chị nghĩ đến đàn con: “Ông trời sinh ra người
đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà
ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”.
Hoá ra, chị không thể bỏ chồng vì cuộc sống trên thuyền không thể thiếu một người đàn ông
trong những lúc phong ba, bão táp, các con chị phải được nuôi nấng, phải được lớn lên,...

-        Chị là một người hiểu thấu lẽ đời, tuy ít học mà tỉnh táo và sáng suốt.

+ Chị xưng hô: quý toà - con tự nhận mình là thân phận thấp hèn. Khi chánh án Đẩu khuyên chị
bỏ chồng. Chị cảm ơn Phùng và Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định:
“Lòng các chú tốt, nhưng
các chú đâu phải là người làm ăn. cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của những
người làm ăn lam lũ, khó nhọc..!”.Chị
quả rất hiểu lẽ đời.

+ Không chỉ hiểu mình, chị hiểu cả tấm lòng của những người phụ nữ hàng chài. Họ biết mình
đau khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung chịu đau khổ để cho đàn con được dưỡng nuôi,
khôn lớn.Bởi người phụ nữ hàng chài không thể sống như những người phụ nữ khác, do hoàn
cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng sống trên sóng nước, gia đình nào cũng trên dưới chục đứa
con. Câu chuyện của chị ở toà án huyện đã mang lại cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng những
nhận thức mới mẻ mà trước đó họ chưa từng nghĩ tới.

-        Chị yêu thương gia đình và cuộc sống đạm bạc của gia đình. Như chị nói: “Trên thuyền cũng

có những lúc cha con, vợ chồng vui vẻ với nhau, nhất là khi nhìn đàn con được ăn no”. Chính
vì vậy, khi chánh án Đẩu đề nghị chị li hôn với chồng chị đã nhất định không chấp nhận.

-> Ở Chị là người phụ nữ bao dung, vị tha, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh.

-        Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhà văn đã có dụng ý tạo nên ấn tượng cho người đọc về hình

ảnh ngừơi đàn bà bằng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo kết hợp với thủ pháp đối lập giữa ngoại
hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung, thương con hơn
tất cả mọi thứ trên đời.

=> Khép lại câu chuyện về người đàn bà vô danh vùng biển, nhưng người đọc không khỏi băn
khoăn, day dứt. Vấn đề dặt ra là làm thế nào để số phận những người phụ nữ như người đàn
bà kia thoát khỏi những bi kịch của cuộc đời? Bằng việc khắc hoạ rõ nét chân dung người đàn
bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã gửi đến người đọc một thông điệp đầy tinh thần nhân
văn: Thời đại nào con người ta cũng cần phải có sự thương yêu, lòng thông cảm, phải có niềm
tin vào cuộc đời.

3.      Chánh án Đẩu

-      Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý.

-      Nhưng Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa thực sự đi sâu

vào đời sống nhân dân.

4.      Nhân vật người chồng

-      Vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”.

-      Một gã đàn ông vũ phu, tàn nhẫn, ích kỉ.

-      Một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.

5.      Thằng bé Phác

-      Một cậu bé giàu tình cảm yêu thương đối với mẹ.

-      Nhưng cũng giống như Đẩu, Phùng, nó mới chỉ nhìn thấy ở cha nó ở khía cạnh độc ác, tàn nhẫn

mà chưa hiểu được “lẽ đời” bên trong.

-      Hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ trong những gia đình có nạn bạo hành.

6.      Đặc sắc nghệ thuật

-      Tình huống truyện độc đáo, “tình huống nhận thức ”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí

đời sống, chân lí nghệ thuật.

-      Ngôi kể, điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đa diện.

-      Lời văn giản dị mà sâu sắc.

III.       Tổng kết

-      Qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc

đối với những cảnh đời, những thân phận trớ trêu, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống.

-      Nhà văn gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính

phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách
giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm:

* Đặt vấn đề:

-     Nguyễn Minh Châu là một nhà văn, một cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi

mới với quan điểm sáng tác: học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là
con người.
Con người trong cuộc sống là tiêu điểm mà Nguyễn Minh Châu rất quan tâm, tìm
tòi, khám phá những điều thú vị, mới mẻ. Và nói về con người thì
toàn bộ sự nghiệp văn học
của Nguyễn Minh Châu là một bài ca tràn đầy cảm hứng nhân đạo nồng nhiệt.

-     Chiếc thuyền ngoài xa là sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới sau 1975.

Đây là một trong những tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo và toát lên tính triết lí sâu sắc
về cuộc sống, về con người Việt Nam thời hậu chiến.

* Triển khai:

-     Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trước nhất thể hiện ở thái độ cảm

thông của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với cuộc sống của những con người nghèo khổ nơi
vùng biển.

+ Nhà văn xót xa trước cảnh nghèo khổ, đông con của những gia đình hàng chài: nhà nào cũng
trên dưới chục đứa
phải sống chen chúc nhau trong những chiếc thuyền lưới vó chật hẹp.Vào
những vụ bắc, biển động hàng tháng, thuyền không ra biển được
cả nhà vợ chồng con cái phải
ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối.

+ Nhà văn hết sức cảm thông trước tình cảnh người đàn bà hàng chài thường xuyên bị chồng đánh
đập:
khuôn mặt mệt mỏi, tấm lưng áo bạc thếch và rách rưới. Hơn thế nữa, nhà văn còn muốn
bênh vực cho chị, không muốn chọ bị chồng đánh đập tàn nhẫn.Vì vậy, trong tác phẩm, ít nhất
hai lần tác giả đã để cho Phùng xông ra bênh vực cho chị đến nỗi anh phải bị thương.

+ Nhà văn cũng cảm thông với tình cảnh của người chồng vũ phu: Cũng chính vì cuộc sống quá
nghèo khổ lại phải lao động vất vả để nuôi cả một gia đình đông con nên
anh con trai cục tính
những hiền lành,
không bao giờ biết đánh vợ xưa kia, giờ đã trở thành một người chồng vũ
phu thường xuyên đánh vợ tàn nhẫn
ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.

-     Thứ hai, giá trị nhân đạo của Chiếc thuyền ngoài xa còn thể hiện ở sự khẳng định, ngợi ca vẻ

đẹp của con người nghèo khổ, bất hạnh và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ
đẹp của tình mẫu tử (những đau khổ, tủi nhục đến cùng cực, những niềm vui nhỏ nhoi tội
nghiệp của người mẹ đều xuất phát từ con). Trong hoàn cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm tối vẫn
ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thương, của đức hi sinh thầm lặng

+ Hình ảnh người đàn bà xấu xí nhẫn nhục vẫn lóe lên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, một
vẻ đẹp đầy nữ tính, vị tha của người phụ nữ ở một miền biển còn đói nghèo, lạc hậu.

+ Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện một cái nhìn rất nhân
đạo về con người. Ông đã phát hiện và khẳng định nhiều phẩm chất cao đẹp ở người phụ nữ
có cái vẻ bên ngoài xấu xí và cam chịu, nhẫn nhục này.

+ Bằng một cái nhìn đa dạng, nhiều chiều và sâu sắc, Nguyễn Minh Châu đã giúp ta cảm nhận
được một tấm lòng vị tha và giàu đức hi sinh của chị. Đối với chồng, mặc dù bị ngược đãi,
người vợ vẫn chịu đựng và cảm thông chứ không hề trách móc hay lên án, tố cáo.Đối với con,
chị là người mẹ giàu đức hi sinh. Chị nói:
đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ
không thể sống cho mình.
Chị đã chấp nhận sự khổ đau để hi sinh cho cuộc sống của đàn con.

-     Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa còn thể hiện ngay trong quan điểm nghệ

thuật của Nguyễn Minh Châu: Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc và vì cuộc đời, vì con
người.

+ Cách kết thúc tác phẩm đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Là tấm ảnh đen trắng nhưng mỗi
lần nhìn vào Phùng đều thấy
hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu
hơn, bao giờ anh cũng thấy
người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh.

-       Ngoài ra, tư tưởng nhân đạo còn được thể hiện ở việc nhà văn đặt ra vấn đề: Làm thế nào để giải
phóng con người khỏi những bi kịch gia đình, bi kịch cuộc sống con người muốn thoát khỏi đau
khổ, tăm tối, man rợ. Phải cần những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc
các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn, cần rút ngắn khoảng cách giữa văn chương và hiện
thực đời sống.

* Đánh giá:

-       Tóm lại, giá trị nhân đạo trong Chiếc thuyền ngoài xa chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm,
băn khoăn, trăn trở của Nguyễn Minh Châu trong việc phát hiện đời sống và con người ở bình
diện đạo đức thế sự.

-       Đọc tác phẩm của ông, người ta đau đớn, day dứt về thân phận con người và tràn đầy khát vọng
làm người cao đẹp. Đó chính là quan điểm nghệ thuật mà tác giả muốn gởi gắm với mọi người:
Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời, nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời và vì
cuộc đời, vì con người.

Bài 13 : HỒN TRƯƠNG BA , DA HÀNG THỊT

1.      Tác giả

-      Lưu Quang Vũ (1948- 1988).

-      Quê gốc: thành phố Đà Nằng, sinh tại Hạ Hòa - Phú Thọ.

-       Gia đình: trí thức (cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, nên thiên hướng và năng khiếu nghệ
thuật của ông đã sớm bộc lộ từ nhỏ).

-       Lưu Quang Vũ không chỉ là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm
tám mươi của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong nhữngnhà soạn kịch tài năng nhất của
nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Với khả năng sáng tạo phi thường, chỉ trong bảy,
tám năm, ông đã sáng tác khoảng 50 kịch bản và hầu hết trong số đó đều đã được trình diễn,
đạt giải
(Sống mãi tuổi 17; NàngXi-ta; Nếu anh không đốt lửa; Lời thề thứ 9; Khoảnh khắc và
vô tận; Tôi và chúng ta; Hồn Trương Ba, da hàng thịt...).

-      Đặc điểm kịch Lưu Quang Vũ:

+ Thể hiện cuộc sống đầy ắp suy tư, mang nặng triết lí về lẽ sống và giá trị cuộc sống
của con người trước những biến động và hoàn cảnh xã hội phức tạp.

+ Hấp dẫn chủ yếu bằng xung đột trong cách sống và quan niệm sống, qua đó khẳng
định khát vọng hoàn thiện nhân cách con người.

=>Lưu Quang Vũxứng đáng là một trong những nghệ sĩ tiên phong, tài năng trong công cuộc
đổi mớicủa
văn học Việt Nam sau năm 1975.

2.      Tác phẩm

2.1.      Hoàn cảnh ra đời

-Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ sáng tác năm 1981, ra mắt công chúng năm
1984.

-      Vở kịch ra đời trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động mạnh mẽ:

+Ngọn gió của không khí đổi mới tư duy, ý thức dân chủ trong đời sống xã hội đã ùa
vào văn học. Hiện thực được phản ánh giờ đây phải có tính đa diện, đa chiều. Số phận con
người, vấn đề cá nhân được khám phá đầy đủ hơn, sâu sắc hơn.

+ Văn học tham gia vào cuộc đối thoại trực tiếp trong bầu không khí dân chủ với công
chúng về những vấn đề nóng bỏng của đời sống hôm nay. Đấu tranh tiêu cực trở thành cảm
hứng nhiệt thành của nhiều cây bút.

Nguồn cảm hứng để Lưu Quang Vũ sáng tác vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

2.2.      Nguồn gốc của vở kịch và sự sáng tạo của tác giả Lưu Quang Vũ

-Nguồn gốc: Vở kịch được sáng tác dựa trên một cốt truyện dân gian:

Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất giỏi.
Nước cờ của anh dễ thường thiên hạ không có người nào địch nổi. Tiếng đồn vang khắp nước,
sang đến tận Giang Nam. Buổi ấy, ở Trung Quốc, có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi
nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền khăn gói sang Nam tìm đến nhà địch thủ. Hai người đọ tài
nhau.Đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ,
Trương Ba kiêu hãnh
bảo:Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không thể gỡ nổi.Đế
Thích là thần cờ ở thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình,
liền cưỡi mây xuống trần, mách cho Kỵ Như mấy nước, Kỵ Như thắng. Đế Thích yêu mến
Trương Ba. Thấy anh khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo anh:
“Ta thấy
nhà ngươi có bụng chân thành, vậy ta cho một bó hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên
một cây, ta sẽ xuống”
. Nói đoạn, cưỡi mây bay lên trời.

Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương
đắc.Nhưng một hôm, Trương Ba bị chết đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp
nhà cửa, thấy có nén hương giắt ở mái nhà, chị ta lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng
. Đế
Thích liền xuống, hỏi thăm thì Trương Ba đã chết rồi. Thương tiếc Trương Ba, Đế Thích làm
cho hồn Trương Ba sống lại trong xác anh hàng thịt vừa mới chết.

Nói chuyện trong nhà người hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc
lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy, đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ
Trương Ba thấy người hàng thịt, biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng
rỡ đón vào.. Vợ người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng. Đôi bên cãi cọ nhau, cuối cùng
biến thành cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó
lên quan.

Quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng thịt mổ, nhưng anh ta lúng
túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người hàng thịt thì
không ngờ, người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà
Trương Ba.Vì thế mới có câu
“ Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. (Theo Nguyễn Đổng Chi, Kho
tàng truyện cổ tích Việt Nam).

- Sáng tạo:Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba được sống yên ổn trong thân xác anh
hàng thịt. Truyện dân gian đề cao linh hồn, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ
giữa thể xác và linh hồn. Còn trong vở kịch
Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ
thì nhân vật Trương Ba phải sống trong nỗi đau khổ, giày vò khi bị rơi vào nghịch cảnh
“bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo”
. Điểm kết thúc của truyện dân gian lại là khởi đầu của
những mâu thuẫn cơ bản trong vở kịch của Lưu Quang Vũ.Từ đó, tác giả gửi tới người đọc
thông điệp: thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau; con người không thể chỉ sống bằng
thể xác, mà phải luôn luôn đấu tranh với bản thân để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và
thể xác, hướng tới một lối sống cao thượng, vươn tới một nhân cách hoàn
thiện.

Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Kịch bản của ông không đơn thuần
là chuyện vay mượn xác - tái sinh. Đặt vấn đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ
“bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo”,
qua mâu thuẫn giữa linh hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục),
vở kịch đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân sinh sâu sắc.

2.3.    Tóm tắt

Vở kịch gồm 7 cảnh:

Cảnh I: Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích trên thiên đình

Nam Tào, Bắc Đẩu ngồi làm công việc điểm tên những người phải chết trong một ngày.
Đế Thích, tiên cờ muốn tỏ ý muốn xuống hạ giới tìm người đánh cờ cho vui. Vì vội đi dự tiệc
ở dinh Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào vội gạch bừa một người có tên là Trương Ba.

Cảnh II: Trương Ba (vốn là một người rất cao cờ) đang chăm vườn và trò chuyện cùng vợ và
cháu gái, con trai, con dâu thì Trưởng Hoạt đến chơi cờ. Lúc Trưởng Hoạt rơi vào thế bí, Trương
Ba rung đùi phán
: “Thế cờ này họa có Đế Thích mới gỡ nổi”. Đế Thích nghe có người nhắc
đến tên mình liền xuất hiện, giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ. Trước khi về trời, Đế Thích đưa cho
Trương ba mấy nén hương và dạy cách sử dụng khi cần gặp mình. Sau đó, Trương Ba đột ngột
qua đời.

Cảnh III: Cảnh Thiên đình

Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trò chuyện thì vợ Trương Ba lên (Bà vô tình thắp
ba nén hương của Đế Thích). Khi biết chuyện Nam Tào gạch ẩu tên chồng, vợ Trương Ba đòi
trả mạng sống cho chồng mình. Đế Thích khuyên Nam Tào, Bắc Đẩu sửa sai bằng cách cho
hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới chết để sống lại.

Cảnh IV: Nhà người hàng thịt

Xác anh hàng thịt đã nằm trong quan tài bỗng đội nắp quan tài lên, đòi về nhà Trương
Ba, không chịu ở lại nhà hàng thịt. Mọi người lúc đầu ngỡ ngàng, sau đó đành chấp nhận để
anh hàng thịt về theo vợ Trương Ba vì sự thật trong thể xác anh hàng thịt đúng là có hồn Trương
Ba.

Cảnh V: Mọi rắc rối cho hồn Trương Ba phải mượn xác hàng thịt bắt đầu xảy ra: Lí trưởng
nhân cơ hội sách nhiễu khiến con trai Trương Ba phải hối lộ mới được lí trưởng cho phép:
Trương Ba phải ở nhà hàng thịt đến nửa đêm mới được về nhà mình.

Cảnh VI: Nhà người hàng thịt

Đêm đã khuya, Hồn Trương Ba giúp chị hàng thịt mổ lợn, pha thịt xong, chuẩn bị về thì
vợ hàng thịt mời cơm rượu và định giữ lại. Hồn Trương Ba bị thể xác xui khiến, lúc đầu định
xuôi theo, nhưng rồi vượt qua phút lưỡng lự, gỡ tay chị ta, trở về nhà.

Cảnh VII: Nhà Trương Ba

Trưởng Hoạt sang phê phán Trương ba bắt đầu đổi tính: uống rượu, thích ăn ngon, nước
cờ đi cũng khác. Lí Trưởng lại đến gây khó dễ. Con trai Trương Ba hư hỏng, chỉ nghĩ đến tiền
và trục lợi. Vợ Trương Ba buồn khổ định bỏ đi. Cháu gái không nhận ộng nội. Con dâu xót xa
vì bố chồng không còn như xưa. Bản thân Trương Ba cũng bất lực với chính mình.

Một cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt diễn ra, trong đó, xác hàng thịt
khẳng định sức mạnh và thế lấn tới của hắn đối với hồn Trương Ba.

Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Cùng lúc,
cu Tị, con chị Lụa hàng xóm, bạn thân cháu nội Trương Ba ốm nặng, sắp chết. Đế Thích định
cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba kiên quyết chối từ, xin cho cu Tị
được sống, trả lại xác cho hàng thịt, chấp nhận cái chết.

Phần kết: Hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây cỏ trong vườn, trò chuyện với vợ. Cu Tị và
cái Gái ăn na và gieo hạt
cho nó mọc thành cây mới.

Hồn Trương Ba, da hàng thịtlà một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ,
đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước.

2.4.     Nhan đề

-      Nguồn gốc: Đây là nhan đề của truyện dân gian, được Lưu Quang Vũ giữ nguyên khi chuyển
thể thành vở kịch.

-     Ý nghĩa:

+Hồn: Thế giới bên trong con người, bao gồm cảm xúc, suy nghĩ, khát vọng... ->Đó là
ẩn dụ cho phần thanh cao, trong sạch, nhân hậu, xứng đáng với danh nghĩa con người.

+Xác: Cái bên ngoài->Đó là ẩn dụ cho sự tầm thường, dung tục.

Hồn Trương Ba, da hàng thịtgợi cảm giác về sự vênh lệch giữa linh hồn và thể xác, giữa
hình thức và nội dung, giữa bên ngoài và bên trong. Nhan đề hé mở những mâu thuẫn, xung đột
cơ bản, xuyên suốt vở kịch.

2.5.      Thể loại: Kịch

-      Khái niệm

+ Kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp.

+ Trong phạm vi văn học, loại văn bản kịch được nêu ra thực chất là phần văn bản của
tác phẩm kịch (kịch bản văn học).

-       Đặc trưng

+ Kịch phản ánh cuộc sống bằng việc khám phá, phát hiện những mâu thuẫn, xung
đột
trong đời sống thực tại rồi diễn đạt bằng hành động và ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật.
Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch” (Hê-ghen).

+ Xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động kịch. Đó là sự tổ chức cốt truyện với
các tình tiết, sự kiện, biến cố theo một diễn biến lôgic, chặt chẽ, nhất quán.

+ Nhân vật kịch: chủ yếu là nhân vật loại hình (được xây dựng trên nền tảng của những
phẩm chất, tính cách đơn nhất hoặc tổng hợp của những tính cách ấy).

+ Ngôn ngữ kịch: có ba loại: đối thoại, độc thoại, bàng thoại.

-       Phân loại: Xét theo nội dung, ý nghĩa của xung đột kịch, người ta phân ra ba loại:

+ Bi kịch: phản ánh xung đột giữa những nhân vật cao thượng, tốt đẹp với những thế
lực đen tối, độc ác; sự thảm bại hay cái chết của những nhân vật ấy gợi lên nỗi xót xa, thương
cảm.

+ Hài kịch: khai thác tình huống khôi hài, sự đối lập giữa vẻ ngoài đẹp đẽ với cái bên
trong xấu xa nhằm bật lên tiếng cười chế giễu, mỉa mai.

+ Chính kịch: phản ánh mâu thuẫn, xung đột hàng ngày với bi hài, buồn vui lẫn lộn.

-       Cấu trúc: mở đầu,thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút.

Hồn Trương Ba, da hàng thịtlà một vở chính kịch mang đầy đủ những đặc trưng trên.

2.6.      Một số nhận định về tác giả và tác phẩm

-       “Kịch Lưu Quang Vũ chứa đựng những trăn trở về lẽ sống, lẽ làm người” (Phan Trọng
Thưởng).

-       “Lưu Quang Vũ đã táo bạo đẩy những nhân vật kịch hiện đại của mình vào sự lột xác, sự trăn
trở nghĩ suy, sự sám hối đến quyết liệt đặng tìm cách giải quyết những vấn đề văn hóa đang
ráo riết đặt ra cho sự phát triển xã hội Việt Nam hiện đại”
(PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái).

-       “Cùng với thời gian, có thể nhiều vở diễn phục vụ các yêu cầu kịp thời của Vũ sẽ bị quên đi.
Nhưng riêng tôi cứ tin là rồi cái vở kịch mượn tích xưa này rồi sẽ trên sân khấu một thời gian
dài nữa”
(Ngô Thảo).

-                                                                                      Đã là hồn Trương Ba

Sao còn da hàng thịt?

Đứng khuất sau cánh gà
Ngậm cười ra nước mắt.

Bạn tôi tay nắm chặt

Muốn giật tấm màn trò

Sao cứ phải vòng vo

Mượn giả để nói thật?

Đời có chút phần hồn

Vàng ròng này khó giữ

Cả hai phía màn nhung
Mình làm mình không dễ.

Trăm rủi, chẳng một may
Liệu rồi khi nhắm mắt?
Thôi, gửi da vào đất
Gửi hồn vào “hương cây”.

(Gửi hồn vào hương cây - Nguyễn Vũ Tiềm)

3.      Văn bản

3.1.      Vị trí

Thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch* Phần cao tràomở nút.

3.2.      Tình huống kịch

-      Hồn Trương Ba phải sống nhờ trong Xác hàng thịt. Mâu thuẫn giữa Hồn và Xác lên đến đỉnh
điểm.

-      Tình huống kịch trong đoạn trích diễn biến qua các bước:

+ Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong xác hàng thịt. Hồn muốn tách khỏi
thân xác kềnh càng, thô lỗ ấy.

+ Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác với sự đắc thắng của Xác khiến Hồn càng khổ đau
và cảm thấy bế tắc.

+ Thái độ cư xử của những người thân trong gia đình: không tin, không thừa nhận
Trương Ba, khiến Hồn Trương Ba càng đau khổ, tuyệt vọng, từ đó đi đến quyết định giải thoát.

+ Cuộc gặp gỡ, đối thoại cuối cùng của Hồn Trương Ba với Đế Thích và quyết định dứt
khoát chấm dứt nghịch cảnh đau khổ của Hồn Trương Ba.

-      Tình huống kịch nói trên thể hiện những mâu thuẫn, xung đột ở nhân vật Hồn Trương Ba và
cách giải quyết của nhân vật này. Qua đó toát lên ý nghĩa tư tưởng sâu sắc của đoạn trích và
cũng là ý nghĩa chung của vở kịch.

3.3.      Nội dung

Đoạn trích tập trung thể hiện những bi kịch éo le của nhân vật Hồn Trương Ba. Qua đó,
Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc một thông điệp: Được sống làm người quý giá thật,
nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý
giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa
thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân,
chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

3.4.      Nghệ thuật

-Tình huống kịch phát triển tự nhiên, hợp lí. Các hành động kịch nối tiếp nhau, đẩy mâu thuẫn
kịch lên đến cao trào, tạo nên kịch tính vô cùng căng thẳng, hấp dẫn.

-Kết hợp giữa việc miêu tả diễn biến tâm lý và hành động của nhân vật.

-      Ngôn ngữ kịch: sinh động, gắn liền với tình cảnh, tâm trạng cụ thể; giàu tính triết lý.

-       Giọng điệu: biến hóa, lôi cuốn. Đặc biệt, có những lời thoại của Trương Ba với Đế Thích vừa
hướng ngoại lại mang tính chất hướng nội (độc thoại nội tâm).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến